Dưới đây, chúng tôi sẽ giới thiệu tới các em tài liệu Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ nhằm giúp các em có những cảm nhận cụ thể nhất về cảnh thôn Vĩ Dạ trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ. Chủ đề: Cảnh thôn Vĩ Dạ trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ. Phân tích cảnh thôn Vĩ
Thông qua việc phân tích kết cấu, nghệ thuật sử dụng ngôn từ và "Cảnh - tình - ý " trong bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" đã làm nổi bật lên vẻ đẹp truyền thống và xen lẫn vẻ đẹp hiện đại trong thơ Hàn Mặc Tử nói riêng và phong trào "Thơ mới" nói chung của giai
Giá trị nghệ thuật bài Đây thôn Vĩ Dạ; 4. Ý nghĩa nhan đề Đây thôn Vĩ Dạ - Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ lúc đầu có tên Ở đây thôn Vĩ Dạ được in trong tập Thơ Điên (về sau đổi thành Đau thương). Cảm hứng của bài thơ có thể được lấy từ mối tình của Hàn Mặc
Cả bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của nhà thơ Hàn Mặc Tử vừa mang vẻ đẹp rất thực với tất cả nét trong sáng, tinh khôi, thơ mộng đặc trưng cho xứ Huế nhưng cũng rất mơ hồ, hư ảo. Bài thơ đã thể hiện nỗi niềm thiết tha gắn bó với đời, thiết tha sống đến khắc khoải và đau đớn của Hàn Mặc Tử trong những ngày cuối đời ở trại phong Quy Nhơn.
NGHỆ THUẬT BÀI THƠ ĐÂY THÔN VĨ DẠ. admin 19/05/2022. Hàn mang Tử là 1 trong hiện tượng thơ lạ mắt vào số 1 của phong trào Thơ mới. Đọc thơ Hàn khoác Tử ta dễ dàng bắt gặp một chổ chính giữa hồn khẩn thiết yêu cuộc sống, yêu thiên cảnh và bé người. Đó còn là một
Fast Money. Cùng Đọc Tài Liệu đi vào phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử để thấy được hình ảnh thiên nhiên Huế được thể hiện hết sức sinh động, đẹp đẽ và sống động, qua đó thể hiện tình cảm sâu sắc của tác giả với thành phố Huế mộng hoàn thành tốt đề bài này, mời các em tham khảo hướng dẫn chi tiết dưới đây của chúng tôi bao gồm dàn ý, sơ đồ tư duy và tuyển tập các bài văn mẫu hay, đạt điểm cao. Cùng tham khảo ngay ...I. Hướng dẫn phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử1. Phân tích yêu cầu đề bài- Yêu cầu đề bài Phân tích nội dung, nghệ thuật của khổ 1 bài Đây thôn Vĩ Dạ- Phạm vi tư liệu dẫn chứng các chi tiết, hình ảnh được nhắc đến trong khổ thơ đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử- Phương pháp lập luận chính phân Luận điểm chính khổ 1 Đây thôn Vĩ DạTrong nội dung phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ, các em cần lưu ý bám sát 3 luận điểm chính quan trọng nhất đó là- Luận điểm 1 Lời trách yêu của người con gái, làm sống dậy tâm hồn nhà thơ về với quê hương xứ Huế thân yêu- Luận điểm 2 Cảnh thiên nhiên xứ Huế, cảnh vật nơi thôn Vĩ Dạ- Luận điểm 3 Hình ảnh con người xuất hiện, thể hiện tình yêu trong trắng, thanh thản, đắm Kiến thức cần nắm vững về khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ DạVì phạm vi đề bài gói gọn trong khổ 1 của bài Đây thôn Vĩ Dạ nên các em chủ yếu cần củng cố lại những kiến thức đã học liên quan đến khổ 1 của bài thơ Đây thôn Vĩ Nội dung khổ 1 bài Đây thôn Vĩ Dạ- Cảnh thiên nhiên và con người thôn Vĩ với những nét đẹp hài hòa hiện lên trong tâm tưởng, hoài niệm của tác giả."Sao anh không về chơi thôn Vĩ?Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điền"b Nghệ thuật khổ 1 bài Đây thôn Vĩ Dạ- Câu hỏi tu từ "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?"- Nghệ thuật so sánh "xanh như ngọc"- Sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh tượng trưng, giàu sức liên tưởng “xanh như ngọc”, “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”II. Lập dàn ý phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ1. Mở bài phân tích Đây thôn Vĩ Dạ khổ 1- Giới thiệu tác giả, tác phẩm+ Hàn Mặc Tử là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới, tài hoa nhưng bạc mệnh, mất sớm vì bệnh tật. Ông đã để lại cho nền văn chương Việt Nam một lượng tác phẩm có giá trị.+ Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Hàn Mặc Tử lấy cảm hứng từ mối tình đơn phương của nhà thơ với bà Hoàng Thị Kim Khái quát nội dung đoạn thơ thứ nhất bài Đây thôn Vĩ Dạ Khung cảnh thiên nhiên và con người thôn Vĩ hài hòa hiện lên trong tâm tưởng nhà Thân bài phân tích Đây thôn Vĩ Dạ khổ 1a Luận điểm 1 Lời trách yêu của người con gái, làm sống dậy tâm hồn nhà thơ về với quê hương xứ Huế thân yêu Câu thơ mở đầu- Bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?"+ Lời trách yêu của một người con gái, trong đó ẩn giấu sự dỗi hờn cả sự ngóng trông da diết+ Thực tế thì không có một người con gái nào đang trực tiếp đối mặt với Hàn Mặc Tử, bởi vậy có lẽ lời trách yêu này là cất lên từ những bức ảnh, những bức tâm thư, nó xôn xao, nó rạo rực sống dậy trong lòng nhà thơ, hướng trái tim người thi sĩ về với quê hương xứ Huế thân Luận điểm 2 Cảnh thiên nhiên xứ Huế, cảnh vật nơi thôn Vĩ Dạ Câu thơ thứ 2,3* Câu thơ thứ 2- Mở ra cảnh thiên nhiên xứ Huế, cảnh vật nơi thôn Vĩ Dạ- Trước mắt nhà thơ đã là không gian của thôn Vĩ Dạ mà là một cuộc hành trình trong tâm thức+ “nắng hàng cau” hình ảnh hàng cau hiện lên dưới ánh nắng của buổi ban mai -> Một khung cảnh tươi mát và trong trẻo làm bừng sáng cả tâm hồn người thi sĩ.+ Cái nắng trong vẻ tinh khôi, tươi mới "nắng mới lên" tức là nắng của buổi bình minh-> Câu thơ có hai từ "nắng" làm cho không gian như tràn ngập ánh sáng, ánh nắng hiện ra cứ trong trẻo và tinh khôi+ Điểm nhìn từ trên cao nhìn xuống từ xa lại gần, một cái nhìn bao quát thấy được màu xanh bao trùm lên khu vườn.* Câu thơ thứ 3- "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc" một lời cảm thán thốt lên trước vẻ đẹp của khu vườn.+ Hình ảnh so sánh "xanh như ngọc" đã làm hiện lên vẻ đẹp tuyệt diệu của khu vườn thôn Vĩ, sự tươi xanh của khu vườn như một viên ngọc bích khổng lồ, tràn đầy sức sống.=> "xanh như ngọc" là một hình ảnh so sánh độc đáo, ở đây màu xanh của lá cây được ví với màu xanh của ngọc mang lại cảm giác dễ chịu, tươi mới, tất cả mọi thứ đều non tươi mơn mởn và tràn đầy sức sống.+ Câu thơ không chỉ đem lại cho ta cảm nhận về thị giác mà còn gợi lên cái cảm giác như được chạm vào những lá xanh mượt mà=> Một trong những nét đặc trưng của các nhà thơ mới chịu ảnh hưởng bởi thơ tượng trưng siêu thực Pháp khi cảm nhận vạn vật bằng nhiều giác Luận điểm 3 Hình ảnh con người xuất hiện, thể hiện tình yêu trong trắng, thanh thản, đắm say Câu thơ thứ 4- Hình ảnh con người xuất hiện"Lá trúc che ngang mặt chữ điền"- Câu thơ này có nhiều cách hiểu khác nhau+ "mặt chữ điền" có thể là khuôn mặt của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, người đã mời Hàn Mặc Tử về chơi thôn Vĩ.+ "mặt chữ điền" cũng có thể đó là khuôn mặt tác giả khi lén trở về thôn bắt gặp những hình ảnh đẹp đẽ. Trong cuộc hành hương tâm tưởng, Hàn Mặc Tử đã gặp lại chính mình với gương mặt chữ điền thời còn là chàng trai tài hoa nổi danh trên đất Huế.=> Hàn Mặc Tử muốn yêu một tình yêu trong trắng, thanh thản, đắm say thì phải trở lại là con người của quá khứ, phải là một nhà thơ đa tình phong lưu thời còn ở Huế. Nói đúng ra là nhà thơ muốn quên mình trong hiện tại với căn bệnh hiểm nghèo để được Hình tượng "lá trúc che ngang" càng cung cấp cho gương mặt chữ điền ấy những nét ngang tàng, phóng khoáng mạnh mẽ của người đàn ông bởi lá trúc trong quan niệm xưa chính là biểu hiện cho người quân Kết bài phân tích Đây thôn Vĩ Dạ khổ 1- Khẳng định giá trị nội dung, nghệ thuật của khổ thơ thứ nhất đối với việc phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.+ Khắc họa bức tranh thiên nhiên, con người làng Vĩ Dạ thật gần gũi, giản dị vừa như thật mà cũng vừa như mơ.+ Sử dụng câu hỏi tu từ, sử dụng ngôn từ trong sáng, gần gũi, gợi hình gợi Sơ đồ tư duy phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ DạChi tiết sơ đồ tư duy phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ khổ 1Tham khảo thêm các mẫu sơ đồ tư duy Đây thôn Vĩ Dạ chi tiết theo từng dạng đề khác nhauIII. Danh sách top 5 bài văn hay phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử1. Bài văn phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ mẫu 1Hàn Mặc Tử là một trong những gương mặt nhà thơ tiêu biểu nhất trong phong trào thơ mới với sức sáng tạo dồi dào cùng phong cách sáng tác ấn tượng. “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ đặc sắc bậc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử, bài thơ là bức tranh hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên trong trẻo với tâm hồn suy tư, xót xa của cái tôi trữ khổ thơ đầu tiên của bài thơ, thi sĩ Hàn Mặc Tử đã hướng ngòi bút đến khung cảnh thiên nhiên giản dị mà đẹp đẽ, trong trẻo của thôn Vĩ“Sao anh không về chơi thôn VĩNhìn nắng hàng cau nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điền”“Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác dựa trên cảm xúc tha thiết khi Hàn Mặc Tử đón nhận món quà của Hoàng Cúc là bức thiệp có in phong cảnh xứ Huế mộng mơ cùng lời mời đầy dịu dàng, tha thiết “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”.Mở đầu bài thơ là câu hỏi tu từ cùng giọng điệu nhẹ nhàng, tha thiết vừa như trách móc, vừa như hờn giận, vừa như lời mời chân thành của người con gái xứ Huế. Câu hỏi cũng chính là lời tự trách của nhà thơ với bản thân khi không thể về thăm lại vùng đất Vĩ Dạ, nơi nhà thơ từng có những kỉ niệm tốt đẹp. Hoàn cảnh hiện tại không cho phép nhà thơ về thăm Vĩ Dạ nhưng bằng tất cả nỗi nhớ, hồi ức đã có, Hàn Mặc Tử đã vẽ lên bức tranh Vĩ Dạ thật sinh động, độc đáo.“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”Vĩ Dạ là vùng quê nổi tiếng với nghề trồng rau truyền thống, với những hàng cau thẳng tắp xanh mướt. Hình ảnh hàng cau trong thơ Hàn Mặc Tử được gợi tả thật đẹp với màu xanh ngắt của lá cau cùng ánh nắng vàng nhẹ tinh khiết của mặt trời khi buổi bình minh. “Nắng” được điệp lại hai lần vừa gợi ấn tượng về ánh sáng vừa diễn tả được cảm giác náo nức, xôn xao của thi sĩ trước khung cảnh thôn Vĩ. Nhớ về thôn Vĩ, tâm hồn nhà thơ Hàn Mặc Tử cũng sáng bừng những cảm xúc trong trẻo, chân thành.“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”Khung cảnh khu vườn xanh ngát, căng tràn sức sống của thôn Vĩ hiện lên tươi đẹp đến ngỡ ngàng, để tăng hiệu quả về thẩm mĩ, tác giả Hàn Mặc Tử đã sử dụng cách so sánh đầy ấn tượng “xanh như ngọc”. Sắc xanh trong trẻo của những tán lá dưới ánh mặt trời trở lên thật lung linh, thật đặc biệt. Từ “mướt” được tác giả sử dụng rất khéo không chỉ diễn tả được cái mượt mà, tươi tốt của vườn cây mà còn cho thấy sự khéo léo, chăm chỉ của bàn tay chăm sóc khu vườn cảm xúc bất tận, xao xuyến về khung cảnh thôn Vĩ, hình ảnh con người thấp thoáng sau khóm trúc hiện lên thật đặc biệt“Lá trúc chen ngang mặt chữ điền”Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành, phúc hậu mang đến cho người đọc một liên tưởng, phải chăng đấy chính là bóng dáng của người con gái Hàn Mặc Tử thương. Dáng vẻ xa xôi, bị cách trở bởi hàng trúc nhưng lại mang đến những xuyến xao da diết cho người nhìn. Đến đây, cảnh và người đã hòa quyện làm một cùng tạo nên bức tranh thơ thật đẹp đẽ, trong với bốn câu thơ ngắn gọn, tác giả Hàn Mặc Tử đã vẽ lên bức tranh Vĩ Dạ đầy gợi cảm, sinh động cùng tình cảm tha thiết, chan chứa tình yêu thương của chủ thể trữ Bài văn phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ mẫu 2Nếu nhân loại không còn khao khát nữaVà nhà thơ nghề chẳng kẻ nào yêuNgười - thi sĩ - cuối cùng là Hàn Mặc TửVẫn hiện lên ở đây đợi chờTrần Ninh HổHàn Mặc Tử - thi nhân của những mối tình "khuấy" mãi không thành khối. Tử yêu nhiều nhưng chua xót nhận ra rằng Trăng là người bạn tình và là người bạn tình chung thuỷ cuối cùng của đời mình. Trong đời thơ, đời người quá ngắn, Hàn say mê bốn thiếu nữ Hoàng Cúc, Mộng Cầm, Mai Đình, Ngọc Sương. Hoàng Cúc, một thiếu nữ thôn Vĩ Dạ là mối tình đầu của Tử, hai người quen nhau ở Quy Nhơn, Tử là nhân viên Sở Đạc điền, còn cha Hoàng Cúc là chủ thầm yêu Hoàng Cúc từ năm 1936, nhưng vì rụt rè nên chỉ dám bộc bạch tâm sự cùng thơ và bạn bè... Năm 1939, biết Tử bị mắc bệnh nan y, lại được người khác nhắc nhờ, thúc giục Hoàng Cúc gửi tặng thi nhân Hàn Mặc Tử bưu ảnh phong cảnh Huế và mấy dòng hỏi thăm mà không kí tên. Hàn lầm tưởng đó là cảnh "Bến Vĩ Dạ lúc hừng đông hay đêm trăng?“. Để tạ lòng cố nhân, Tử gửi tặng Hoàng Cúc bài Đây thôn Vĩ Dạ. Đọc bài thơ này, người vô tâm mấy cũng không thể không nhớ khổ thơ đầuSao anh không về chơi thôn Vĩ?Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điềnCảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ phải gắn với mối tình đầu của Tử và Hoàng Cúc. Nhưng lâu nay, bị ám ảnh bởi yếu tố ngoài văn bản ngôn ngữ - đặc biệt là ý kiến "Hoàng Cúc đã chỉ cho Hàn Mặc Tử một tấm hình cô mặc áo dài trắng trường Đồng Khánh ..., và trách Hàn Mặc Tử sao lâu nay không ra thăm thôn Vĩ Dạ nên nhiều người đã hiểu câu thơ mở đầu bài thơ là lời trách nhẹ nhàng, nhè nhẹ. Đúng là giọng hờn dịu ngọt của các cô gái Huế, trách mà cứ như là chào mời khách về thăm thôn lời bình ấy xem ra có lẽ thoát văn bản. Căn cứ vào đâu mà nói "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" là câu hỏi trách móc của một thôn nữ. Hơn nữa, như Hoàng Cúc khẳng định sau tấm bưu ảnh, không có lời trách móc nào. Làm sao có thể trách người đang từng giờ, từng phút đợi tử thần đến mang đi?Thơ trữ tình là thơ hướng nội. Thơ Hàn Mặc Tử càng là thơ hướng nội. Câu hỏi "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" có thể là câu tự văn của chính bản thân Tử. "Anh" ở đây là đại từ nhân xưng được dùng ở ngôi thứ nhất, chứ không phải ngôi thứ hai. Một câu hỏi mang tính chất giãi bày. Câu thơ thể hiện niềm nuối tiếc, nhân vật trữ tình đã tự trách mình sao lại không về chơi thôn Vĩ. Dòng thơ đượm buồn, có pha chút hối hận. Cả bài Đây thôn Vĩ Dạ phải chăng là để trả lời câu hỏi đã đặt ra ở câu đầu tiên của bài thơ có lẽ nên đặt dấu chấm hỏi ở vị trí cuối cùng của dòng thơ thứ hai thì hợp lí hơn.Trước khi tạo nên bài Đây thôn Vĩ Dạ bất hủ này. Hàn Mặc Tử đã có lần đi qua khu vườn nhà Hoàng Cúc ở bến Vĩ Dạ, nhưng chỉ đứng ở cổng mà nhìn vào. Ấn tượng sâu sắc đầu tiên còn lại trong độc giả khi đọc khổ thơ đầu là cảnh "bến Vĩ Dạ lúc hừng đông". Qua cảnh này, Tử muốn gửi gắm những tâm sự kín đáo nào đây? Trong muôn vàn cây, lá của Vĩ Dạ, nhà thơ nhắc đến hàng cau tắm nắng bình đời nay với người Việt Nam, cây cau vẫn gợi mối tình đôi lứa, bằng biện pháp nghệ thuật tăng cấp tiên tiến, nhà thơ đã nhấn mạnh ý "nắng mới lên", "xanh như ngọc''. Nắng bình minh nắng mới lên đẹp thì đẹp, nhưng qua cái nhìn của thi nhân lãng mạn nó cũng qua nhanh như ''hơi rượu say" bởi vậy liền sau cảnh hừng đông là cảnh bến sông đêm trăng buồn đến nao lòng."Nắng hàng cau nắng mới lên” đi liền với "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc". Cũng là vườn mang hương vị ngọt ngào của ca dao, nhưng vườn mà Tử miêu tả khác vườn của Nguyễn Bính. Ở đây, người ta thấy xuất hiện trong thơ một khu vườn "mướt quá xanh như ngọc". "Vườn ai" - vườn có một đối tượng có vẻ như phiếm chỉ, nhưng cũng có thể là vườn của người mình thương, vườn tình của cô ràng, khu vườn trong thơ Tử không phải là "vườn hồng", cũng không phải là khu vườn có "bóng hoàng hôn", mà là vườn xanh như ngọc. Phép so sánh khá mới lạ này khiến cho độc giả có thể nghĩ đến "vườn em" là vườn cành vàng lá ngọc. Vào khu vườn ấy đâu phải dễ dàng. Câu thơ thứ tư nói rõ thêm ý tưởng ấy"Lá trúc che ngang mặt chữ điền".Hình ảnh lá trúc góp phần làm rõ thêm tính quyền quý của khu vườn Vĩ Dạ. Khuôn mặt chữ điền bị lá trúc che ngang lâu nay đã trở thành lời thách đố đối với bao nhiêu bạn yêu thơ. Nhiều người đồng tình khẳng định khuôn mặt chữ điền là khuôn mặt phúc hậu, hiền lành, trung thực, ca dao Huế đã từng có câuMặt em vuông tựa chữ điềnDa em thì trắng, áo đen mặc ngoàiLòng em có đất có trờiCó câu nhân nghĩa có lời thủy chungNhà thơ quá cố Chế Lan Viên đã có ý nghi ngờ, khi ông nêu ra câu hỏi "Con gái mặt chữ điền thì đẹp gì đâu mà Hàn Mặc Tử ca ngợi". Gương mặt chữ điền trong câu thơ là gương mặt ai? Một số người cho rằng Gương mặt ấy chính là gương mặt Hoàng Cúc, người khác lại nghĩ là gương mặt Hàn Mặc Tử. Hình ảnh lá trúc làm nảy sinh sự tranh cãi khá gay gắt. Lá trúc thực ở ngoài đời hay lá trúc vẽ trên những bức rèm treo trước cửa các nhà quyền quí? Người ta nói "Văn chương tự cổ bằng cử cũng không phải là không có nguyên thiển nghĩ của người viết bài này thì trung tâm phát sóng của khổ thơ nằm trong chi tiết thẩm mĩLá trúc che ngang mặt chữ điềnLá trúc ấy phải ở trong vườn ngọc kia, nó che khuất, che lấp cả sự phúc hậu, hiền lành, trung thực, phải chăng nó thực sự trở thành trở lực ngăn cách tình người. Nó làm cho "Gió theo lối gió, mây đường mây", nó tạo nên "Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay", nó kết lại trong một lời tráchỞ đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đàCâu kết bài thơ đã trả lời khá đầy đủ lí do "Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Chỉ thiên về việc khai thác vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên và con người xứ Huế, có thể người bình thơ sẽ mắc phải sai lầm là không hiểu hết bi kịch tình yêu của Tử. Khi Hàn Mặc Tử viết Đây thôn Vĩ Dạ thì tình cảm của thi nhân với Hoàng Cúc cũng chỉ còn trong quá vãng lúc này Hàn Mặc Tử đã yêu người khác. Hơn nữa, Tử lại đang ở trong tình trạng hoang mang, bi quan đến cực độ khi biết mình bị bệnh nan y. Khổ thơ đầu nói riêng và cả bài "Đây thôn Vĩ Dạ" nói chung do vậy vẫn nằm trong cảm hứng "đau thương" của Hàn Mặc Bài phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ mẫu 3Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ Mới. Thơ ông đặc trưng bởi sự dịu dàng, đằm thắm và xen chút buồn man mác. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những sáng tác hay nhất của Hàn Mặc Tử với những cảm xúc chân thật, thiết thơ được lấy cảm hứng từ bức thư của Hoàng Thị Kim Cúc gửi cho nhà thơ. Nó là tiếng lòng, là sự nhớ nhung quê hương cùng với một chút thương xót cho cuộc tình dở dang. Vì căn bệnh hiểm nghèo mà Hàn Mặc Tử bị xã hội xa lánh, buộc ông phải sống cách li và vì thế, đã rất lâu nhà thơ chưa về thăm lại thôn Vĩ. Bức thư của cô gái mà anh thầm yêu thương đã làm cho nỗi nhớ quê hương trào lên trong tâm hồn tác giả. Khổ thơ mở đầu chỉ là bốn câu ngắn ngủi nhưng lại có sức truyền tải vô cùng anh không về chơi thôn VĩNhìn nắng hàng cau nắng mới lênVườn ai mướt quá, xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điềnNgay từ đầu bài thơ, tác giả đã dẫn ra một câu hỏi tu từ. Câu hỏi ấy được đưa ra nhưng lại chẳng mong được đáp trả. Có lẽ, nó là lời trách móc nhẹ nhàng của Kim Cúc về sự ra đi của Mặc Tử. Đã bao lâu rồi anh không về thăm lại xứ Huế mộng mơ, thăm thôn Vĩ quen thuộc mà những ngày trước đây hai người đã từng có biết bao kỉ niệm. Câu thơ gợi lên một cảm giác bâng khuâng, xao xuyến. Nó cũng giống như một lời mời gọi sự quay trở lại quê hương, thăm thôn Vĩ Dạ nên thơ, dịu dàng. Và cũng có khi nó là sự tiếc nuối, nhớ nhung da diết của chính tác đã xa quê hương mà chưa một lần trở về. Nỗi khát khao được trở về đã thúc giục anh, buộc anh phải tự hỏi chính mình “Sao không về thăm thôn Vĩ”. Thôn Vĩ là một chốn thôn quê bình yên, thơ mộng, đậm chất Huế. Không được trực tiếp tận hưởng không gian ấy nhưng những hình ảnh đẹp nhất, dịu ngọt nhất vẫn đang chảy trong tâm hồn của nhà thơ với sự nhớ mong da nắng hàng cau nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngọcHai câu thơ vẽ lên trước mắt bạn đọc một bức tranh tươi đẹp và tràn đầy sức sống. Mỗi câu thơ lại dẫn dắt ta đến với sự xinh đẹp, mộng mơ của thiên nhiên xứ Huế. Ở những con đường nhỏ của thôn Vĩ, hai hàng cau mọc lên thẳng tắp đón lấy ánh nắng mặt trời. Chúng toát lên một vẻ thanh thoát, cao sang. Những tàu cau vươn mình ra xa, đón lấy những cơn gió nhẹ nhàng cùng tia nắng ấm áp. Mặt trời vừa hé, tỏa ra ánh nắng dịu dàng của buổi sớm mai. Những tia nắng không quá chói chang, nóng bỏng, chúng ấm áp một cách dịu nắng len lỏi vào từng kẽ lá, chiếu rọi xuống mặt đất những hình hài đáng yêu của bóng cây. Nắng sáng mai luôn là thứ nắng tuyệt đẹp. Nó mang đến sức sống, mang đến hơi thở cho mọi vật. Và lấp ló sau những rặng cau là khu vườn ngập tràn màu xanh. Cây cối được mặt trời tưới xuống nhựa sống, chúng đâm chồi nảy lộc và đua nhau xanh tốt. Màu xanh trải dài khắp cả chốn thôn quê. Màu xanh trong mắt của Hàn Mặc Tử có một cái gì đó mới mẻ và lạ lẫm. Nó không phải là xanh rì, xanh thẳm mà lại xanh màu xanh của cách so sánh rất đặc biệt và hấp dẫn. Thiên nhiên trở nên hữu tình và thơ mộng hơn qua con mắt của thi nhân. Màu xanh ấy toát lên một sức sống mãnh liệt và mạnh mẽ. Cây cối cứ mơn mởn lên để đón ánh nắng mặt trời. Nó làm cho không gian của thôn Vĩ Dạ trong lành, thoáng mát và xanh hơn. Mọi thứ đều tươi mới và tràn trề nhựa sống. Thôn Vĩ vẫn luôn luôn là thế, đẹp đẽ, mộng mơ và ngập tràn hương vị thiên rồi, trong không gian ấy, hình ảnh con người hiện lên thật hiền trúc che ngang mặt chữ điềnNhững lá trúc chập chờn theo làn gió. Nó như đang sà xuống khu vườn xanh mát để đắm mình cùng sức sống của thiên nhiên. Cũng có thể những lá trúc ấy đang nghiêng mình bên cửa sổ, ẩn hiện phía sau tấm rèm là khuôn mặt “chữ điền” của những cô gái Huế mộng mơ. Đó là khuôn mặt phúc hậu nhưng không kém phần duyên dáng. Thiên nhiên và con người hòa vào nhau, đan xen với nhau để tạo nên một cái nhìn mới lạ đầy hấp dẫn. Người con gái Huế nhẹ nhàng, e thẹn lấp ló sau những chiếc lá xanh mượt mà. Nó như càng gợi lên nỗi nhớ quê hương da diết đang trực trào trong lòng tác tích khổ 1 bài Đây thôn Vĩ Dạ tuy ngắn ngủi nhưng đã khơi gợi được biết bao điều ý nghĩa. Một xứ Huế mộng mơ nhưng căng tràn sức sống, một thiên nhiên trong lành cùng những con người hiền hòa, dịu êm. Tất cả sẽ mãi khắc sâu vào trong lòng bạn đọc với tất cả sự yêu thương và trân trọng tình đời và tình người trong Đây thôn Vĩ Dạ, cái chữ “tình” bên trong con người Hàn Mặc Tử tài Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ khổ 1 bài văn mẫu số 4Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào thơ mới. Tuy cuộc đời nhiều bi thương nhưng ông đã để lại cho cuộc đời nhiều tác phẩm có giá trị. Đây thôn Vĩ Dạ sáng tác năm 1938 được in trong tập thơ Điên là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của ông. Bài thơ được gợi cảm hứng từ mối tình với cô gái Hoàng Thị Kim Cúc vốn quê ở Vĩ Dạ, một thôn nhỏ bên bờ sông Hương xứ Huế thơ mộng trữ tình. Khổ thơ đầu chính là nỗi niềm ao ước, đắm say của thi nhân qua hoài niệm về cảnh mườn mượt và con người thôn Vĩ trong nắng sớm ban mai tràn ngập sức thôn Vĩ Dạ ra đời gắn với mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử, cảm xúc từ chính tấm bưu thiếp mà Hoàng Cúc gửi kèm lời thăm hỏi, động viên khi tác giả mắc bệnh hiểm nghèo. Bài thơ có liên quan đến một tình cảnh riêng, một nỗi niềm riêng nhưng ý nghĩa khái quát lại lớn hơn một tình yêu đôi lứa. Gần 80 năm nay, nó đã vượt qua một mối tình, một cảnh ngộ cụ thể để trở thành tiếng lòng khao khát yêu đời, gắn bó với thiên nhiên cuộc sống của con người nói chung trong cuộc thơ mở đầu khổ 1 là một câu hỏi phảng phất chút tình riêng của thi sĩ"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?"Có lẽ đây vừa là lời hỏi han, lời mời mọc nhưng cũng vừa là lời hờn trách nhẹ nhàng của cô gái Huế qua trí tưởng tượng của nhà thơ. Dường như tác giả tự phân thân để bộc lộ lời nhắc nhở ấy ra bên ngoài và cũng là niềm khao khát thôi thúc mãnh liệt từ bên trong của nhà thơ. Đó là được trở về thăm thôn Vĩ là vùng quê ngoại thành Huế, có vẻ đẹp thanh tao, trầm lắng, với kiến trúc nhà, vườn xinh xắn. Vĩ Dạ không chỉ đẹp trong đời thực mà còn rất nổi tiếng trong thơ văn viết về cố đô"Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thônBiết che cần trúc, không buồn mà say"Đối với nhà thơ, Vĩ Dạ thân quen đã trở thành mảnh đất thơ, mảnh đất tâm hồn mình cho nên câu thơ mở đầu đã hé mở cảnh gắn bó của nhà thơ đối với người và cảnh nơi thôn Vĩ. Tác giả sử dụng từ ngữ rất tinh tế, không dùng "về thăm" nghe có vẻ xã giao, khách sáo mà dùng "về chơi" rất tự nhiên, chân tình, thân mật, gần gũi. Sau câu hỏi mang nhiều sắc thái cảm xúc, nét đặc sắc riêng của không gian Vĩ Dạ được mở ra trong thế giới thơ mộng"Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên"Điệp từ "nắng" hai lần gợi liên tưởng đến tính chất nhiều nắng của miền Trung. "Nắng mới lên" là nắng sớm, nắng tinh khôi mở đầu một ngày mới. Cau là thứ cây cao nhất trong vườn nên nó là cây cuối cùng chia tay với hoàng hôn hôm trước. Cũng là thứ cây đầu tiên vươn mình đón lấy ánh nắng ban mai long lanh của buổi sớm hôm sau. Những thân cau, tàu cau ướt đẫm sương đêm được tắm mình trong nắng mới khiến cho khu vườn trở nên bừng sáng và ngập tràn sức một câu thơ mà có đến hai từ "nắng" luyến láy trở đi trở lại, nó không những thể hiện sự tràn trề ánh sáng, tràn trề sức sống mà còn bộc lộ tâm hồn luôn hướng về ánh sáng, hướng về cuộc đời của Hàn Mặc Tử. Trước nét ý vị nên thơ của sắc nắng, của hương cau ngào ngạt phả vào hồn người, nhà thơ không khỏi ngỡ ngàng, tràn trề khen ngợi"Vườn ai mướt quá xanh như ngọc"Với những từ ngữ gợi tả giàu sắc thái biểu cảm, nhà thơ đã hé mở dần một vẻ đẹp đặc biệt khác của cảnh vườn thôn Vĩ. Đại từ phiếm chỉ "ai" kết hợp với từ "mướt" mang tính gợi tả cao, không chỉ nói lên trạng thái óng ả, mượt mà của cây lá đang độ phát triển non tơ mà còn thể hiện sự sung túc, ngập tràn ánh nắng. Bởi vậy câu thơ không tả nắng nhưng ta vẫn thấy nắng tràn trề tươi tắn khắp cả khu vườn. Từ "quá" liền nó gợi âm hưởng vừa là tiếng reo thật khẽ ngỡ ngàng nhận ra vẻ đẹp xinh tươi của cảnh vườn thôn Vĩ, vừa bộc lộ thái độ khen ngợi những bàn tay lao động chăm chỉ khéo léo của chủ nhân khu pháp gợi tả và so sánh vô cùng tinh tế của nhà thơ khiến cho cả khu vườn Vĩ Dạ giờ đây như chiếc áo choàng nhung xanh mượt được đính lên những hạt ngọc lấp lánh tạo bởi những giọt sương đêm còn đọng lại trên cành, búp lá. "Xanh như ngọc" là màu xanh vừa có ánh sáng long lanh, vừa có màu xanh mướt. So sánh "vườn ai mướt quá xanh như ngọc" là một sự so sánh độc đáo gợi đúng thần thái của vườn thôn Vĩ trong nắng sớm ban mai. Vườn thôn Vĩ không chỉ rờn rợn sắc xanh mà còn tỏa vào không gian những ánh xanh tươi hoài niệm của nhà thơ, thôn Vĩ đã đẹp bởi sự trù phú, tốt tươi của cây cối, giờ đây vẻ đẹp ấy càng trở nên sinh động, hấp dẫn hơn khi có sự xuất hiện của con người, hơn nữa đó lại là bóng dáng thấp thoáng của một giai nhân."Lá trúc chen ngang mặt chữ điền"Chỉ bằng nét vẽ cách điệu tài hoa, nửa thực nửa hư, thi sĩ đã gợi tả vẻ đẹp hài hòa giữa khuôn mặt chữ điền đầy đặn, vuông vức với những lá trúc mảnh mai thanh tú. Đó chính là sự hài hòa trong mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên nơi đây. Theo quan niệm truyền thống, mặt chữ điền là biểu tượng của sự phúc hậu, đoan trang, cao quý."Mặt em vuông tựa chữ điềnDa em thì trắng, áo đen mặc ngoàiLòng em có đất có trờiCó câu nhân nghĩa, có lòng thủy chung"Hay"Cái mặt chữ điền tiền rưỡi cũng mua"ca daoỞ đây, gương mặt ấy như tôn lên sự e ấp, duyên dáng khi được che ngang bởi những chiếc lá trúc thanh mai. Câu thơ đã mang đến cho người đọc ấn tượng về hình ảnh con người xứ Huế vừa dịu dàng, phúc hậu, vừa kín đáo, thăng những hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp gợi tả, ngôn ngữ tinh tế giàu liên tưởng, bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ mà đặc biệt là khổ thơ thứ nhất là một nét vẽ chủ đạo trong bức tranh đẹp về thiên nhiên đất nước. Đó cũng là tiếng lòng của con người tha thiết yêu đời yêu người.Nguồn Nguyễn Thị Thanh Nhi / Wattpad5. Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ khổ 1 ngắn gọn nhất bài văn mẫu số 5Sao anh không về chơi thôn VĩNhìn nắng hàng cau nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điền?Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ hay của Hàn Mặc Tử được viết ra từ hai nguồn cảm hứng. Đầu tiên là cảm hứng về một vùng quê ở ven bờ sông Hương, cây cối tươi tốt, làng xóm đông vui. Bích Khê có ý thơ ca ngợi Vĩ DạVĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn!Biếc tre cần trúc không buồn mà sayNguồn cảm hứng thứ hai là tình cảm với một cô gái quen biết ở xứ Huế, gợi lên ở tác giả thi hứng chứa chan cảm xúc, mộng tưởng. Quách Tấn cho rằng đó là mối tình thơ mộng nhiều mơ ước của Hoàng đầu bài thơ là ý chào mời, trách móc, hay là câu hỏi với người thân quenSao anh không về chơi thôn Vĩ?Nhìn nắng hàng cau nắng mới lênCâu thứ hai gợi lên vẻ đẹp khoẻ khoắn giàu sức sống của làng quê trong buổi bình minh. Hàng cau vút thẳng trong ánh nắng ban mai, tạo vẻ đẹp tinh khôi, đậm đà bản sắc quê hương chú ý hình ảnh “nắng mới lên” và điệp từ “nắng”Vĩ Dạ là vùng đất trù phú có những vùng đất cây cảnh, cây ăn quả được tắm nắng, gội mưa thường xuyên; được chăm sóc bởi những bàn tay con người cần cù, khéo léo nên cây cối tốt tươi, ánh lên như màu ngọc bích long lanhVườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điềnCâu thơ “Vườn ai mướt quá...” cất lên như một tiếng reo biểu lộ sự vui thích thú, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp bất ngờ của khung cảnh thôn Vĩ. Chữ “mướt” nói lên một cái gì mềm mại, óng ả, mượt mà. Lá cây mướt xanh biểu hiện mức sống non tơ và đặc biệt màu “xanh như ngọc” là một sự so sánh rất độc đáo và gợi cảm. Đó là màu xanh như có ánh sáng bên trong. Riêng màu xanh của thiên nhiên, cỏ cây có hàng chục, hàng trăm cách nói Xanh lơ, xanh thẳm, xanh rì, xanh lục, xanh tươi, xanh đậm... Xanh như ngọc là màu xanh nói lên đối tượng như đang có sức sống nõn nà, trong thơ thứ tư đột ngột xuất hiện cành trúc, một gương mặt mang hồn của Vĩ Dạ. Câu thơ cách điệu hóa, có sự hài hòa giữa con người và cảnh vật. Cảnh vật thiên nhiên thì gợi cảm đến thế, còn con người thì cũng rất chân chất, phúc hậu, gắn bó với ruộng vườn, bóng người thấp thoáng trong tre trúc vẫn là nét đẹp quen thuộc của làng quê Việt thôn Vĩ Dạ nói chung và khổ 1 của bài thơ nói riêng là sự kết hợp tuyệt đối giữa cảnh và tình. Nó hấp dẫn người đọc bởi vẻ đẹp bức tranh xứ Huế trầm mặc cổ kính mà rất tao nhã quý phái, gợi nên linh hồn của mảnh đất cố đô. Qua đó, ta càng khâm phục hơn nghị lực sống của tác giả, sự tài hoa của một nghệ sĩ giàu tình yêu thương.>>> Xem thêm bài văn phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ để có thêm tư liệu cho bài Kiến thức mở rộng khổ 1 Đây thôn Vĩ DạNgoài việc vận dụng những kiến thức đã học, để phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ một cách hay nhất, hấp dẫn người đọc các em cũng nên bổ sung thêm những nội dung mở rộng khác nếu có liên quan đến đoạn thơ, bài thơ như1. Về phong cách sáng tác của Hàn Mặc Tử- Hàn Mặc Tử là một hiện tượng thơ kì lạ vào bậc nhất của phong trào Thơ mới. Đọc thơ Hàn thi sĩ ta bắt gặp một tâm hồn thiết tha yêu cuộc sống, yêu thiên cảnh, yêu con người đến khát khao, cháy bỏng; một khát vọng sống mãnh liệt đến đau đớn tột cùng. Trong thơ Hàn, nhiều bài thơ mang khuynh hướng siêu thoát vào thế giới siêu nhiên, tôn giáo…nhưng đó là hình chiếu ngược của khát vọng sống, khát vọng giao cảm với số bài thơ cuối đời của thi sĩ họ Hàn còn đan xen những hình ảnh ma quái - dấu ấn của sự đau đớn, giày vò về thể xác lẫn tâm hồn. Đó là sự khủng hoảng tinh thần, bế tắc và tuyệt vọng trước cuộc đời. Nhưng dù được viết theo khuynh hướng nào, thơ Hàn Mặc Tử vẫn là những vần thơ trong sáng, lung linh, huyền ảo, có một ma lực với sức cuốn hút diệu kì đối với người yêu thơ Hàn Mặc Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiên phong trong việc cách tân thi pháp của phong trào Thơ mới. Thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử là một thế giới đa dạng, nhiều sắc màu. Hàn Mặc Tử đã đưa vào Thơ mới những sáng tạo độc đáo, những hình tượng ngôn từ đầy ấn tượng, gợi cảm giác liên tưởng và suy tưởng phong phú. Ngoài bút pháp lãng mạn, nhà thơ còn sử dụng bút pháp tượng trưng và yếu tố siêu Tâm hồn thơ ông đã thăng hoa thành những vần thơ tuyệt diệu, chẳng những gợi cho ta niềm thương cảm còn đem đến cho ta những cảm xúc thẩm mĩ kì thú và niềm tự hào về sức sáng tạo của con Quá trình sáng tác thơ của ông đã thâu tóm cả quá trình phát triển của thơ mới từ lãng mạn sang tượng trưng đến siêu Bài thơ ra đời vào tháng 8 - 1939 ?Trong bức thư cô gái Hoàng Thị Kim Cúc gửi Nguyễn Bá Tín có đoạn "Xót xa quá, tôi không biết làm gì khác hơn là viết mấy hàng chữ hỏi thăm sức khỏe Tử, viết mà không ký tên, không đề ngày, sau tấm ảnh phong cảnh Huế. Rồi mấy tháng sau, Ngâm lại gửi về tôi bài thơ Ở đây thôn Vỹ Giạ * với mấy hàng Tử viết sau lưng bài thơ vào tháng 8 - 1939. Giữa Hàn Mạc Tử và tôi chỉ có chừng nấy. Có thể nói đó là một kỷ niệm đầy thơ mộng của mối tình trong trắng, thanh cao và bất diệt giữa hai tâm hồn khác tôn giáo".* "Ở đây thôn Vỹ Giạ" là tên ban đầu của bài thơ.Theo báo thêmSoạn bài Đây thôn Vĩ DạCảm nhận khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ DạCảm nhận khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ DạDàn ý phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ DạPhân tích nét cổ điển và hiện đại trong Đây thôn Vĩ DạĐây thôn Vĩ Dạ chỉ thể hiện tình yêu đối với người con gái xứ HuếẤn tượng của em về bài thơ Đây thôn Vĩ DạCảm nhận tâm trạng của nhân vật trữ tình trong Đây thôn Vĩ DạMở bài Đây thôn Vĩ DạPhân tích 2 khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ DạCảm nhận về hai khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ Trên đây là bài hướng dẫn chi tiết phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các em trong quá trình học môn Ngữ Văn. Đừng quên tham khảo thêm nhiều bài Văn mẫu 11 khác tại Chúc các em luôn học tốt và đạt kết quả cao!
Ngày đăng 28/09/2013, 0810 VÀI NÉT VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG BÀI THƠ “ĐÂY THÔN VĨ DẠ” CỦA HÀN MẶC TỬ Tác giả Đỗ Minh Phúc Hàn Mặc Tử là một hiện tượng thơ kì lạ vào bậc nhất của phong trào Thơ mới. Đọc thơ Hàn thi sĩ ta bắt gặp một tâm hồn thiết tha yêu cuộc sống, yêu thiên cảnh, yêu con người đến khát khao, cháy bỏng; một khát vọng sống mãnh liệt đến đau đớn tột cùng. Trong thơ Hàn, nhiều bài thơ mang khuynh hướng siêu thoát vào thế giới siêu nhiên, tôn giáo…nhưng đó là hình chiếu ngược của khát vọng sống, khát vọng giao cảm với đời. Một số bài thơ cuối đời của thi sĩ họ Hàn còn đan xen những hình ảnh ma quái- dấu ấn của sự đau đớn, giày vò về thể xác lẫn tâm hồn. Đó là sự khủng hoảng tinh thần, bế tắc và tuyệt vọng trước cuộc đời. Nhưng dù được viết theo khuynh hướng nào, thơ Hàn Mặc Tử vẫn là những vần thơ trong sáng, lung linh, huyền ảo, có một ma lực với sức cuốn hút diệu kì đối với người yêu thơ Hàn Mặc Tử. Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiên phong trong việc cách tân thi pháp của phong trào Thơ mới. Thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử là một thế giới đa dạng, nhiều sắc màu. Hàn Mặc Tử đã đưa vào Thơ mới những sáng tạo độc đáo, những hình tượng ngôn từ đầy ấn tượng, gợi cảm giác liên tưởng và suy tưởng phong phú. Ngoài bút pháp lãng mạn, nhà thơ còn sử dụng bút pháp tượng trưng và yếu tố siêu thực. Tiếp cận với thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử là cảm nhận được tính hàm súc, mới lạ của ngôn từ, hình ảnh thơ; tính đa nghĩa, tạo sinh của văn bản thơ; tính điêu luyện trong cách tổ chức, cấu trúc tác phẩm và tính mơ hồ, khó hiểu. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” có thể xem là một chủ âm trong cây đàn thơ muôn điệu của Hàn Mặc Tử, là một thi phẩm xuất sắc của thi đàn Thơ mới. Tìm hiểu thế giới nghệ thuật của bài thơ sẽ giúp người đọc hoá giải được phần nào lòng yêu đời, yêu cuộc sống mãnh liệt nhưng đầy uẩn khúc của hồn thơ Hàn Mặc Tử. Thế giới nghệ thuật là chỉnh thể của hình thức văn học. Văn bản ngôn từ xét về một mặt chỉ là biểu hiện của hình thức bề ngoài của tác phẩm. Tác phẩm trọn vẹn xuất hiện như một thế giới nghệ thuật, một khách thể thẩm mĩ. Dùng từ “thế giới” để chỉ tác phẩm văn học là có cơ sở khoa học, bởi thuật ngữ “thế giới nghệ thuật” thoã mãn các ý nghĩa của khái niệm “thế giới” chỉ sự thống nhất vật chất của các biểu hiện đa dạng; có giới hạn về không- thời gian; phạm vi tác động của các qui luật chung, chứng tỏ có một trật tự thống nhất cho toàn bộ; có tính đầy đủ về các qui luật nội tại; là một kiểu tồn tại, thực tại. Thế giới nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của con người. Tuy nhiên, việc xác định thế giới nghệ thuật như thế nào thì chưa có ý kiến thống nhất. Từ khái niệm “thế giới” nêu trên có thể hiểu “thế giới nghệ thuật” là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ chỉ có trong tác phẩm văn học nói riêng và trong tác phẩm nghệ thuật nói chung, trong cảm thụ của người tiếp nhận, ngoài ra không tìm thấy ở đâu cả. Thế giới nghệ thuật mang tính cảm tính, có thể cảm thấy được và là một kiểu tồn tại đặc thù trong chất liệu và trong cảm nhận của người thưởng thức, là sự thống nhất của mọi yếu tố đa dạng trong tác phẩm. Tóm lại, thế giới nghệ thuật hiểu một cách khái quát là tập hợp tất cả các phương thức, hình thức nghệ thuật biểu hiện mà nhà văn sử dụng để phản ánh và sáng tạo hiện thực. Để tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong “Đây thôn Vĩ Dạ”, thiết nghĩ cũng nên cần trở lại một số vấn đề có liên quan đến bài thơ Hồi còn làm ở Sở Đạc điền Bình Định, Hàn Mặc Tử có một mối tình đơn phương với Hoàng Thị Kim Cúc- con gái của chủ sở, người Huế. Mối tình chưa được mặn nồng thì Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn làm báo nhưng lòng vẫn nuôi hy vọng ở mối tình đơn 1 phương đó. Khi trở lại Qui Nhơn thì Hoàng Cúc đã theo cha về ở hẳn ngoài Huế nên thi sĩ rất đau khổ. Về sau khi biết Hàn mắc bệnh hiểm nghèo phải xa lánh mọi người để chữa bệnh, Hoàng Cúc đã gửi vào cho Hàn một tấm thiếp kèm vài lời động viên. Tấm thiếp là bức phong cảnh in hình dòng sông với hình ảnh cô gái chèo thuyền bên dưới những cành trúc loà xoà, phía xa xa là ráng trời, có thể là rạng đông hay hoàng hôn. Nhận được tấm thiếp ở một xóm vắng Bình Định- nơi cách li để chữa bệnh- xa xứ Huế. Hàn Mặc Tử đã nghẹh ngào. Tấm thiếp như một chất xúc tác tác động mạnh mẽ đến hồn thơ Hàn Mặc Tử. Những ấn tượng về xứ Huế đã thức dậy cùng với niềm yêu đời vô bờ bến. Thi sĩ liền cất bút viết bài thơ này trong một niềm cảm xúc dâng trào. Nội dung tự thân của bài thơ đã vượt ra khuôn khổ của một kỉ niệm riêng tư. Được gợi hứng từ tấm thiếp nhưng bài thơ không đơn thuần là những lời vịnh cảnh, vịnh người từ tấm thiếp mà đó là tiếng lòng đầy uẩn khúc của một tình yêu cháy bỏng nhưng vô vọng; một niềm khao khát sống, thiết tha gắn bó với cuộc đời, nhất là lúc nhà thơ đang mắc phải căn bệnh hiểm nghèo. Đến với thế giới nghệ thuật của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là đến với một thế giới nghệ thuật đầy cá tính sáng tạo, mang những nét riêng cá tính và dị biệt của một hồn thơ đau thương, đa sầu, đa cảm trước thiên nhiên, cuộc sống và con người. Trước tiên nhìn từ góc độ không- thời gian nghệ thuật, bài thơ liên kết với nhau không tuân theo tính liên tục của thời gian và tính duy nhất của không gian cảnh vườn thôn Vĩ tươi sáng trong ánh nắng mai với cảnh sắc bình dị mà tinh khôi, đơn sơ mà thanh tú, nghiêng về cảnh thực; cảnh sông nước đêm trăng huyền ảo, thực hư xen lẫn vào nhau chập chờn chuyển hoá và hình bóng “khách đường xa” nơi chốn sương khói mông lung, cảnh chìm trong mộng ảo. Không- thời gian nghệ thuật của bài thơ được sáng tạo mang tính chủ quan gắn với tâm lí và cảm quan của nhà thơ. Thời gian trong bài thơ tồn tại không có tính liên tục, bị đứt nối, ngắt quãng cảnh thôn Vĩ vào buổi sớm tinh mơ- cảnh sông nước đêm trăng và cuối bài thơ chỉ còn là thời gian vô thức, không xác định. Thời gian trong “Đây thôn Vĩ Dạ” như một dòng chảy trôi những đứt nối của một nỗi niềm thiết tha gắn bó với đời, khát vọng sống đến khắc khoải. Thời gian nghệ thuật là một biểu tượng thể hiện một quan niệm thẩm mĩ của nhà văn về cuộc đời và con người. Thời gian trong “Đây thôn Vĩ Dạ” đã thể hiện quan niệm của Hàn Mặc Tử về thế thái nhân sinh. Cuộc đời là một chuỗi thời gian đứt gãy, chắp nối và cuối cùng tan vào hư vô. Mở đầu bài thơ, thời gian bắt đầu một ngày mới “Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên”, cảnh vật tràn đầy sức sống. Thời gian thường vận động theo dòng vận động tuyến tính, một chiều. Thế nhưng, nét khác là thời gian trong bài thơ không liên tục mà ngắt quãng. Thời gian mở đầu là buổi sớm tinh khôi nhưng đột ngột chuyển sang đêm trăng đầy mong ngóng, lo âu, buồn đến nao lòng và kết thúc trong thời gian mộng ảo, không xác định. Sự đứt nối thời gian trong bài thơ như một nỗi niềm tâm sự của nhà thơ về cuộc đời và kiếp sống mong manh, đứt đoạn của con người, của Hàn Mặc Tử- một kiếp người dang dở tình duyên và sự nghiệp văn chương. Thời gian của bài thơ không mang tính liên tục còn không gian lại không tuân theo tính duy nhất. Không gian trong “Đây thôn Vĩ Dạ” là không gian của sự chia lìa. Không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học là mô hình thế giới độc lập, có tính chủ ý và mang ý nghĩa tượng trưng của tác giả, là không gian tinh thần của con người, là không gian sống mà con người cảm thấy trong tâm tưởng. Không gian nghệ thuật là loại không gian topos, là không gian cảm giác được, là không gian nội cảm chứ không phải như không gian mặt phẳng kiểu Euclid. Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống. Do đó không thể quy không gian trong “Đây thôn Vĩ Dạ” về không gian địa lí hay không gian vật lí, vật chất. 2 Không gian trong bài thơ là không gian xứ Huế và không gian một vùng quê Bình Định xa vời, cách trở, huyền hồ ”mờ nhân ảnh”. Hai không gian nhuốm màu cách biệt như mối tình đơn phương dang dở cuả Hàn- Hoàng khiến ta chạnh lòng nhớ lại hai không gian li biệt khi Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều- một cuộc chia li đầy xót xa, đau đớn Người lên ngựa, kẻ chia bào, Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san. Nhưng dù sao Hàn Mặc Tử vẫn đợi chờ và nuôi mầm hi vọng cho mối tình tuyệt vọng ấy. Hai không gian xa xôi, ngăn cách ấy không phải vì không gian địa lí mà đó là sự cách trở của hai tâm hồn, là nỗi niềm thổn thức của Hàn thi sĩ. Không gian ở đây được soi chiếu qua lăng kính cảm xúc chủ quan của nhà thơ. Tóm lại, cả bài thơ liên kết với nhau không theo một trật tự nào của không gian và thời gian. Nhưng về mạch cảm xúc thì vận động nhất quán trong cùng dòng tâm tư Đó là lòng yêu đời, lòng ham sống mãnh liệt nhưng đầy uẩn khúc của một hồn thơ, lòng thiết tha với cảnh vật, với con người và cuộc sống. Vì thế, bố cục tuy có vẻ “đầu Ngô mình Sở”nhưng lại liền mạch, liền khổ. Đây là một nét độc đáo của tác phẩm. Thế giới nghệ thuật trong bài thơ còn thể hiện ở sự lựa chọn và sử dụng các phương tiện ngôn ngữ nghệ thuật để miêu tả hiện thực và nội tâm một cách sinh động và sâu sắc. Mở đầu bài thơ, tác giả đã khai thác có hiệu quả biện pháp tu từ truyền thống -Câu hỏi tu từ Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên. Vườn ai mướt quá xanh như ngọc, Lá trúc che ngang mặt chữ điền. “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” là một câu hỏi có nhiều sắc thái vừa hỏi han, vừa hờn trách, vừa nhắc nhở, vừa mời mọc. Câu hỏi như xoáy sâu vào nỗi đau trong lòng nhà thơ- một người đang mang căn bệnh hiểm nghèo, bế tuyệt trước tình yêu và cuộc sống- biết bao giờ được quay gót trở về thôn Vĩ tươi đẹp, thơ mộng. Nơi đã để lại trong kí ức nhà thơ những dấu chân kỉ niệm với biết bao hình ảnh nên thơ, gợi cảm. Thôn Vĩ là nơi Hàn Mặc Tử thường lui tới khi còn là học sinh trường Pellerin ở Huế. Hơn thế nữa, nơi ấy Hàn đang ấp ủ một mối tình tuyệt vọng. Chính vì vậy, việc trở về thăm thôn Vĩ như một sự thôi thúc bên trong tâm hồn nhà thơ nhưng biết khi nào ước mơ ấy hoá thành hiện thực. Hình tượng chủ thể trong câu thơ trên là “cái tôi” li hợp, bất định vừa là mình, vừa phân thân ra cùng một lúc nhiều mình khác nữa . Tác giả đang tự phân thân để hỏi chính mình về một việc đáng ra phải thực hiện từ lâu nhưng giờ đây không biết có còn cơ hội nữa không. Sự phân thân và những sắc thái tình cảm phức hợp hoà trộn vào nhau trong cùng một câu hỏi làm cho niềm ao ước được trở về thôn Vĩ vừa mãnh liệt, vừa uẩn khúc, khó giãi bày. Nghĩa là ao ước đấy song cũng đầy mặc cảm. Ở khổ hai của bài thơ, câu hỏi tu từ lại tiếp tục xuất hiện như một dấu nhấn cảm xúc, tâm trạng Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay. Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, Có chở trăng về kịp tối nay? Câu hỏi ở cuối khổ thơ có ngữ điệu hỏi thể hiện trong các từ “Thuyền ai”… “đó”…”có chở”…”kịp”…Ngữ điệu hỏi ấy toát lên một niềm hi vọng đầy khắc khoải, phấp phổng trong tâm trạng. Khổ cuối của bài thơ lại xuất hiện một câu hỏi tu từ như một lời ướm hỏi đậm nét hoài nghi 3 Mơ khách đường xa, khách đường xa, Áo em trắng quá nhìn không ra. Ở đây sương khói mờ nhân ảnh, Ai biết tình ai có đậm đà? Câu hỏi là niềm hoài nghi về sự đậm đà trong tình cảm của ”ai” đó đối với Hàn Mặc Tử. Chữ “ai” thứ nhất là chủ thể- tác giả. Chữ “ai” thứ hai có thể hiểu theo nghĩa hẹp là “khách đường xa” nhưng có thể mở rộng ra là những người tình trong cõi mộng, thoắt ẩn, thoắt hiện trong tâm trí của Hàn Mặc Tử. Ở đây không phải là nhà thơ “không tin” mà là “không dám tin” cho tình ai có đậm đà thì đúng hơn. Không tin thì nghiêng về thái độ lạnh lùng, không mong đợi gì, còn không dám tin thì vẫn còn bao hàm cả một hi vọng sâu kín. Qua những câu hỏi tu từ rải dọc dọc suốt chiều dài bài thơ, ta như cảm nhận được diễn biến tâm trạng của Hàn Mặc Tử từ ao ước, đắm say đến hoài vọng, đợi chờ và mơ tưởng, hoài nghi để cuối cùng sầu muộn và bi quan, yếm thế. Tất cả chỉ là những cung bậc khác nhau nhưng cốt lõi vẫn là một nỗi niềm thiết tha giao cảm với đời, với con người. Đó là những cảm xúc lành mạnh của một tâm hồn trong trẻo chứ không chán chường đập phá, tiêu cực. Nhìn chung đây không phải là những vần thơ trao- đáp. Hỏi chỉ là hình thức trình bày nỗi niềm tâm trạng. Các câu hỏi được phân bố khắp toàn bài. Vì thế, âm điệu bài thơ bị chi phối bởi ngữ điệu của những câu hỏi ấy. Cảm xúc trong bài thơ phần lớn đã được chuyển vào âm điệu của những câu hỏi. Trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm văn học không chỉ có yếu tố ngôn từ mà còn có cả thế giới được miêu tả theo các nguyên tắc nghệ thuật. Đến với thế giới nghệ thuật của “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta bắt gặp hàng loạt những hình ảnh đầy chất thơ và giàu sức gợi cảm. Mở đầu bài thơ là hình ảnh thật giản dị, mộc mạc, gần gũi với biết bao làng quê Việt “Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên…”. Hình ảnh ấy hiện lên trước tiên trong kí ức nhà thơ bởi nơi ấy đong đầy kỉ niệm của một thời cắp sách mà Hàn Mặc Tử không thể xoá nhoà và nơi đây cũng là quê hương của người tình trong mộng- Hoàng Cúc. Vì thế, cảnh vật cũng gợi nhớ, gợi thương, gợi sự trắc trở, uẩn khúc trong lòng nhà thơ. Hình ảnh quen thuộc ấy như những con sóng xô bờ khơi đậy nỗi nhớ Vĩ Dạ đến cồn cào, da diết. Hình ảnh “Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên” sao lại soi chiếu đầu tiên vào cảm quan tác giả và có sức lan toả mạnh mẽ như vậy? Có phải chăng đó là hình ảnh tinh thanh nhất của làng quê xứ Huế? So sánh với hình ảnh “nắng” trong bài “Mùa xuân chín” Trong làn nắng ửng, khói mơ tan…/ Dọc bờ sông trắng, nắng chang chang…thì “nắng” ở đây được miêu tả một cách trực quan nên gây ấn tượng mạnh đối với người đọc. Riêng ánh nắng trong “Đây thôn Vĩ Dạ”chỉ gợi chứ không tả nhưng vẫn có sức lôi cuốn, hấp dẫn bởi nó gián tiếp gợi tả vẻ đẹp tinh khôi, thanh khiết, thanh thoát của ánh nắng và cảnh thiên nhiên buổi sớm. Sáng sớm, cau là thứ cây đầu tiên trong vườn được nhận những tia nắng ấm áp, tinh khôi nhất. Sau một đêm đắm mình trong sương lạnh, những hàng cau xanh như được tắm trong làn nắng ấm long lanh và trở nên tinh khiết hơn. Thân cau mảnh mai vươn vào bầu trời trong xanh in bóng xuống mảnh vườn quê với dáng điệu thật thanh thoát. Hình ảnh mở đầu bài thơ thật tươi sáng, thật thơ mộng. Thế nhưng sang khổ hai đột ngột xuất hiện những hình ảnh gợi sự chia lìa, li tán, khác thường Gió theo lối gió, mây đường mây, Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay. Hình ảnh thơ thoạt nhìn đã thấy ngay sự phi lí. Theo logic hiện thực thì mây, gió làm sao có thể tách rời nhau. Gió có thể bay “theo lối gió” nhưng mây làm sao có thể tự 4 bay theo lối riêng của mình. Thế mà gió và mây như những cánh lục bình trôi tan tác trên dòng sông. Sự chia phôi này thật ngang trái và phi lí đến mức khó sự chia li này làm cho dòng nước buồn man mác và hoa bắp cũng lay động nghẹn ngào. Tại sao Hàn thi sĩ lại khắc hoạ một hình ảnh như thế? Nhà thơ sáng tạo nên hình ảnh thơ ấy không phải bằng giác quan mà bằng cái nhìn mặc cảm mặc cảm của sự chia lìa. Nhà thơ mang nặng mặc cảm của một người gắn bó sâu nặng với cuộc đời, khát vọng được sống và được yêu hết mình nhưng lại sắp sửa phải chia tay với cuộc sống bởi căn bệnh nan y nên cảm nhận tất cả đều chia lìa, vỡ vụn. Thậm chí những ước vọng tưởng chừng nằm trong tầm tay nhưng đã vuột mất để lại trong tâm hồn nhà thơ một khoảng trống vô biên của nuối tiếc và tuyệt vọng. Về nhịp điệu, câu thơ “Gió theo lối gió, mây đường mây…” cũng có cách ngắt nhịp khác thường. Câu thơ thất ngôn thường ngắt nhịp 2/2/3 nhưng lại được ngắt nhịp 4/3. Mỗi hình ảnh bị chia cách trong một khuôn nhịp riêng biệt càng làm tăng thêm sự ngăn cách. Hình ảnh và nhịp điệu câu thưo như hoà quyện vào nhau tạo nên không khí đau buồn của cuộc chia li giữa mây và gió hay nỗi buồn đau trong tâm tưởng nhà thơ. Nếu phần đầu khổ thơ là hình ảnh cách trở thì phần cuối khổ thơ là những hình ảnh đẹp đẽ, nên thơ với tâm trạng mong chờ, thấp thỏm , lo âu Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, Có chở trăng về kịp tối nay? . Hình ảnh “sông trăng”, “thuyền trăng” thật giàu chất thơ. Hiệu quả nghệ thuật của câu thơ là tạo nên không khí mơ hồ, thực hư chập chờn chuyển hoá cho nhau khá thơ mộng. Nhưng vẻ đẹp của trăng chưa phải là hình ảnh mang dấu ấn thật sự riêng biệt của Hàn Mặc Tử. Chính ý nghĩa của hình tượng “trăng” mới là dấu ấn in đậm trong tâm thức người đọc. Trong khổ thơ, tất cả hình ảnh đều gợi khái niệm phiêu tán. Tất cả đều bị trôi chảy về tận cuối trời xa khiến nhà thơ cảm thấy như mình bị bỏ rơi bên bờ sông quên lãng. Trong khoảnh khắc moment lạc lõng, bơ vơ, cô đơn ấy, Hàn Mặc Tử chỉ còn biết bầu bạn cùng trăng như một niềm an ủi cuối cùng. Trăng giờ đây là điểm tựa tinh thần của nhà thơ. Cho nên, thi sĩ đặt hết niềm hi vọng vào trăng, vào con thuyền chở trăng có về kịp tối nay để xoa dịu vết thương lòng của Hàn Mặc Tử. Trong khổ thơ chỉ có vầng trăng không chấp nhận sự chảy trôi vô lí ấy mà trở về kết bạn tri âm cùng thi sĩ. Nhưng tiếc thay cuối đời vầng trăng thơ ấy cũng không làm nguôi ngoai nỗi sầu của Hàn Mặc Tử nên nhà thơ đành ngậm ngùi chia tay trong đau đớn, xót xa và hờn trách “Ai mua trăng, tôi bán trăng cho? .” Thuyền có chở trăng về kịp tối nay như một sự cảm nhận ngắn ngủi về thời gian và không gian, sống như chạy đua với những giây phút còn lại của cuộc đời. Cũng chạy đua với thời gian nhưng tâm thế của cái tôi Xuân Diệu lại khác. Xuân Diệu nhận ra cái chết luôn đang chờ mỗi người ở cuối con đường huỷ diệt nên cần sống và tận hưởng men nồng của tình yêu trong “Vội vàng” Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn, Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều… Đối với Hàn Mặc Tử cái chết đã cận kề, chỉ được sống và yêu không thôi là một niềm hạnh phúc quá lớn lao. Vì vậy, chữ “kịp” nghe ngắc ngoải, lo âu, đầy xót thương. Trong “Đây thôn Vĩ Dạ” có một nét phong cách đặc thù là cực tả. Ngôn từ của nhà thơ thường có thiên hướng miêu tả ở mức cực điểm. Ở khổ 1 tác giả cực tả về sắc xanh kì lạ của vườn quê Vĩ Dạ “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. 5 Trong quan niệm của Hàn Mặc Tử, trinh bạch, tinh khiết là vẻ đẹp lí tưởng mà nhà thơ say mê, khao khát. Trong thơ của Hàn thi sĩ, vẻ đẹp ấy thường hiện ra trong sắc trắng lạ lùng. Sắc trắng loá của tà áo người thiếu nữ mà nhà thơ mơ tưởng hay bờ sông trắng nắng chang chang. Có thể nói vấn đề tạo hình là phương thức biểu hiện chủ đạo tạo nên sắc thái biểu cảm trong thơ Hàn Mặc Tử. Với thế giới các hình ảnh nên thơ, huyền hoặc, đầy sức quyến rũ phần nào đã giúp người đọc cảm nhận được những rung động, những cung bậc khác nhau trong tâm hồn và cảm xúc lạ thường của nhà thơ được bộc lộ qua nghệ thuật ngôn từ. Hàn Mặc Tử đã đi xa nhưng con đường thơ ca của nhà thơ vẫn còn đó, vẫn còn mới mẻ, tinh khôi. Đến với Gái quê, Đau thương, Xuân như ý, Thượng thanh khí, Chơi giữa mùa trăng…ta như lạc vào một vườn thơ đầy hương sắc của một hồn thơ luôn yêu đời, yêu cuộc sống. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một thông điệp tình yêu đối với thiên nhiên, với con người và cuộc sống đầy lãng mạn nhưng cũng đầy tuyệt vọng. Thế giới nghệ thuật trong “Đây thôn Vĩ Dạ” nói riêng và trong toàn bộ sự nghiệp văn thơ của Hàn Mặc Tử nói chung là một thế giới đa âm sắc, đầy cá tính sáng tạo, mang tính truyền thống về đề tài nhưng cách tân, hiện đại trong câu chữ, nghệ thuật tạo nên những nét lạ thường, độc đáo. Trong “Đây thôn Vĩ Dạ”, người đọc nhận ra dạng kết cấu vừa đứt đoạn, vừa liên kết, nhất quán của mạch thơ. Hình ảnh thơ mộc mạc, giản dị nhưng sắc nét. Với thế giới nghệ thuật ấy, Hàn Mặc Tử đã có những đóng góp mới lạ, tạo một phong cách riêng, một thi pháp riêng, một quan niệm nghệ thuật riêng cho làng thơ Bình Định thời bấy giờ với cái tên đày ấn tượng “Trường thơ loạn”. “Đây thôn Vĩ Dạ” đã trải qua bảy mươi năm thăng trầm cùng lịch sử văn học nhưng nó vẫn giữ nguyên giá trị. Đây cũng là một trong những bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Hàn Mặc Tử đầy tài năng mhưng tiếc thay đoản mệnh! Vĩ Dạ, mùa phượng vĩ 2008 6 . VÀI NÉT VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG BÀI THƠ “ĐÂY THÔN VĨ DẠ” CỦA HÀN MẶC TỬ Tác giả Đỗ Minh Phúc Hàn Mặc Tử là một hiện tượng thơ kì lạ vào. là một trong những nhà thơ tiên phong trong việc cách tân thi pháp của phong trào Thơ mới. Thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử là một thế giới đa - Xem thêm -Xem thêm Vài nét về thế giới nghệ thuật trong bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử, Vài nét về thế giới nghệ thuật trong bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử,
01/04/2015 Lớp 11, Văn mẫu 1,552 Lượt xem“Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử được đánh giá là một kiệt tác bởi bài thơ mở ra một hướng tìm tòi về thi pháp của thơ mới lãng mạn. Ở bài thơ này, cái nghịch lý của tồn tại được biểu đạt một cách xúc tích, thông qua sự trải nghiệm cá nhân của riêng thi sĩ Hàn Mặc Tử; hình tượng thơ đa nghĩa, biến ảo lung linh. Mỗi khổ thơ là một câu hỏi giúp người đọc dần dần khám phá “cái tôi” trữ tình đầy mâu thuẫn của thi nhân – niềm xốn xang trong hoài niệm về thôn Vĩ; sự mặc cảm về thân phận “chậm chân”, ” lỡ chuyến” giữa cuộc đời; sự ám ảnh về cõi mơ, về tình trạng gió – mây đôi ngả trong cuộc đời và trong tình yêu; cảm giác âu lo, phấp phỏng, mong chờ ….giúp ta cảm nhận bản năng sống vô cùng mãnh liệt của chủ thể trữ tình, một thi nhân tài hoa dù lâm vào tình cảnh bi đát nhưng không thôi tra vấn về ý nghĩa cuộc luận cho bài viết Nhận xét Có thể bạn quan tâmPhân tích bài thơ đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc TửNhắc tới Hàn Mặc Tử không thể không nhắc tới bài thơ “Đây thôn Vĩ …
“Ai mua trăng tôi bán trăng cho Trăng nằm yên trên cảnh liễu đợi chờ Ai mua trăng tôi bán trăng cho Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề”. Ai đã từng sinh ra và lớn lên trên cõi đời này mà không biết đến “lời rao trăng” nổi tiếng ấy của một nhà thơ cũng rất nổi tiếng trong những năm ba mươi của thế kỉ XIX, vâng đó chính là Hàn Mặc Tử – một tên tuổi mãi mãi in đậm trong tấm lòng đọc giả. Ông là “một hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại, đau đớn, dường như có một cuộc vật lộn và giằng xé dữ dội giữa linh hồn và xác thịt”. Ông “đã tạo ra cho thơ mình một thế giới nghệ thuật điên loạn, ma quái và xa lạ với cuộc đời thực”. Có lẽ vì vậy mà trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh và Hoài Chân đã xếp Hàn Mặc Tử vào nhóm thơ “kì dị” cùng với Chế Lan Viên. Tuy vậy, bên những dòng thơ điên loạn ấy, vẫn có những vần thơ trong trẻo đến lạ thường. “Đây thôn Vĩ Dạ” trích trong tập “Thơ Điên” là một bài thơ như thế. Đây chính là sản phẩm của nguồn thơ lạ lùng kia – là một lời tỏ tình với cuộc đời của một tình yêu tuyệt vọng, yêu đơn phương nhưng ẩn bên dưới mỗi hàng chữ tươi sáng là cả một khối u hoài của tác giả. Bài thơ còn là tình yêu thiên nhiên, yêu con người Vĩ Dạ một cách nồng cháy – nơi chất chứa biết bao kỉ niệm và luôn sống mãi trong hồi tưởng của ông. Chính vì thế đọc bài thơ này ta thấy được một phương diện rất đẹp của tâm hồn nhà thơ. “Đây thôn Vĩ Dạ” – bài thơ tuyệt bút này đã từng gây ra biết bao tranh luận bởi cái hay của nó không chỉ thể hiện ở nội dung mà còn hay ở nghệ thuật từ âm điệu, câu chữ, hình ảnh đến cả nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được vận dụng một cách thành thạo và khéo léo, nhưng cảnh thì ít mà tình thì nhiều cho nên cả bài thơ là một âm điệu du dương được gảy lên từ tiếng lòng của chính nhà thơ. Có tài liệu cho rằng bài thơ được gợi hứng từ bức ảnh phong cảnh Huế cùng mấy lời thăm hỏi của Hoàng Cúc – người yêu đơn phương mà ông đã thầm yêu trộm nhớ từ ngày xưa – một người con gái dịu dàng thướt tha của thôn Vĩ xứ Huế. Nhưng bức tranh thôn Vĩ mà Hoàng Cúc gửi cho tác giả chỉ là cái cớ trực tiếp để nảy sinh thơ, còn động lực và cội nguồn sâu xa làm nên cảm hứng thì Hàn Mặc Tử đã có sẵn lâu rồi, chỉ chờ đến cơ hội là nó sẽ bộc phát. Đó là vẻ đẹp của một dáng Huế yêu kiều – nơi đã khắc chạm một dấu ấn khó quên của một người con gái và cũng là nơi để lại một mối tình đơn phương trong lòng tác giả “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?” Xứ Huế mộng mơ đã từng là nơi khơi nguồn cho bao văn nghệ sĩ, không ít người đã có những sáng tác xúc động về xứ Huế mộng mơ này “Đã bao lần đến với Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt” hay là “Trở lại Huế thương bài thơ khắc trong chiếc nón, em cầm trên tay ra đứng bờ sông…”, Huế có trong câu hát, có trong lòng mọi người và nay lại có trong thơ Hàn Mặc Tử. Câu thơ mở đầu bài thơ là một câu hỏi mang nhiều sắc thái vừa hỏi, vừa nhắc nhở, vừa trách móc, vừa như là một lời giới thiệu và mời gọi mọi người. Câu thơ có bảy chữ nhưng chứa tới sáu thanh bằng đi liền nhau làm cho âm điệu trách móc cứ dịu nhẹ đi, trách đấy mà sao tha thiết và bâng khuâng thế! Nhưng ai trách, ai hỏi? Không phải của Hoàng Cúc mà của chủ thể trữ tình Hàn Mặc Tử, từ nỗi lòng da diết vối Huế của thi nhân mà vút lên câu hỏi tự vấn khắc khoải này. Thật sự ở thôn Vĩ có cái gì đặc biệt và hấp dẫn mà tác giả đã giục giã mọi người đến đấy? Ba câu thơ tiếp theo sẽ vẽ ra một hình tượng chung – một mảnh vườn thông Vĩ “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền” Thôn Vĩ hiện lên trong thơ Hàn Mặc Tử thật giản dị mà sao đẹp quá! Bằng tình yêu thiên nhiên của mình, tác giả đã mở ra trước mắt ta một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác, đẹp một cách lộng lẫy. Thôn Vĩ nói riêng và Huế nói chung được đặt tả bằng ánh sáng của buổi bình minh và một vườn cây quen thuộc. Đây là ánh nắng mà ta có thể bắt gặp trong bài “Mùa xuân chín” của tác giả “Trong làn nắng ửng khói mơ tan Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”. Nắng trong thơ Hàn Mặc Tử thường lạ, đầy ấn tượng với những “nắng tươi”, “nắng ửng”, còn ở đây là “nắng mới lên”. Điệp từ “nắng” đã tỏa sức nóng cho bức tranh, cho sự sống, nắng ở đây trong và sáng đang trải dài trên những tán cau còn ướt đẫm sương đêm. Hàng cau hiện lên trong một khoảnh khắc đặc biệt, gắn liền với cái “nắng mới lên” trong trẻo, tinh khôi, thật cụ thể và đầy gợi cảm trong buổi sớm mai. Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ cũng bừng lên rực rỡ nồng nàn. Đó là những tia nắng đầu tiên chiếu rọi xuống làng quê, chiếu thẳng vào những vườn cây tươi mát, sum sê làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được đính vào chiếc áo choàng nhung xanh mượt “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” Câu thơ sử dụng đại từ phím chỉ “ai” để nói đến con người xứ Huế. Câu thơ có vẻ đẹp thật long lanh, vì có sắc “mướt” chăng? Hay vì được sánh với “ngọc” chăng? Vườn thôn Vĩ như một viên ngọc lấp lánh đang tỏa vào không gian cái sác xanh của mình. Khung cảnh đơn sơ nhưng vô cùng lộng lẫy, chỉ bằng một vài từ gợi tả “mướt quá” và so sánh “xanh như ngọc” Hàn Mặc Tử đã tạo nên một bức tranh quê rực rỡ, chan hòa sự sống. Qua đó chứng tỏ, nhà thơ là một ngòi bút có tài quan sát tinh tế và trí tượng phong phú. Và cảnh vật ấy như sinh động hẳn lên khi có sự hiện diện của con người, nhưng người ở đây không phải toàn diện từ đầu đến chân mà chỉ là khuôn mặt “chữ điền” kín đáo, dịu dàng và phúc hậu “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” Ở đây có hơi hướng Á Đông cổ điển, mặt chữ “điền” là khuôn mặt đượm nét phúc hậu đoan trang, nếu nói “lá trúc che ngang” thì chỉ có thể nói về một cô gái có vẻ đẹp rất Huế. Cô gái e lệ đứng thấp thoáng sau những lá trúc càng chứng tỏ “vườn ai” và vườn cô gái đứng chỉ là một. Thiên nhiên và con người hài hòa với nhau đã tạo nên cái thần thái, cái hồn của Vĩ Dạ – một Vĩ Dạ vốn thơ mộng. Và đối với tâm tưởng của Hàn Mặc Tử, đó là thôn Vĩ của tình yêu và hoài niệm. Thôn Vĩ nằm cạnh ngay bờ sông Hương êm đềm nên ắt hẳn nhịp sống của con người ở đây cũng sẽ bị chi phối bởi cái êm ả của sông Hương “Dòng sông Hương vẫn êm ả lững lờ trôi” – nhẹ nhàng mà vô cùng đẹp. Từ cách tả cảnh làng quê ở khổ đầu tác giả đã chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong, sầu muộn hư ảo trong giấc mộng. Ở khổ thơ thứ hai tâm trạng của tác giả đã chuyển sang một gam khác nên bước vào khổ thơ này chính là bước vào không gian tâm trạng riêng của Hàn Mặc Tử “Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay” Thực tại phiêu tàn bắt đầu bao trùm cả bài thơ. Nhịp thơ 4/3 cùng với hai hình ảnh đối lập “gió” và “mây” đã gợi lên nỗi buồn vì mây và gió trôi nổi, lang thang chính vì thế mà nó bay thẳng vào thơ của Hàn Mặc Tử. Cái buồn sẵn có của nó kết hợp với vần thơ của tác giả thì chính nó đã tự làm cho nó buồn hơn bởi gió đi theo đường của gió, mây theo đường của mây, gió và mây từ nay xa cách nhau, không còn là bạn đồng hành của nhau nữa nên không còn lí do gì để gặp nhau. Mượn hình ảnh mây và gió tác giả muốn nói lên tâm trạng buồn của mình, về sự xa cách của mình và người yêu và cũng có thể sự xa cách đó là vĩnh viễn vì Hàn Mặc Tử bây giờ đã là một phế nhân, đang nằm chờ cái chết. Chúng ta không còn thấy giọng thơ tươi mát, đầy sức sống như ở đoạn trước nữa nhưng lại bắt gặp một tâm hồn đau buồn, u uất “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” Dòng sông Hương hiện lên mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt. Với biện pháp nhân hóa “dòng nước buồn thiu” đã làm cho hình ảnh dòng nước trở nên u buồn, xa vắng. “Dòng nước buồn” vì tự mang trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi buồn chia phôi của gió – mây đã bỏ buồn vào dòng sông? Câu thơ này dường như còn thể hiện nhịp sống thường ngày của người dân nơi đây một lối sống êm đếm và buồn tẻ. Hình ảnh “hoa bắp lay” gợi một nỗi buồn hiu hắt – một nỗi buồn bao phủ từ bầu trời đến mặt đất, từ đất, gió, mây đến dòng nước và hoa bắp trên sông. Đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng, tất cả bây giờ chỉ là hư ảo trong mộng tưởng. Trên cái xu thế đang trôi đi, chảy đi, thi sĩ chợt ước ao một thứ có thể ngược dòng “về” với mình, ấy là “trăng” “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay? ” Một không gian tràn ngập ánh trăng, một dòng sông trăng, một bến đò trăng, một con thuyền đầy trăng…Không gian “bến sông trăng” nghe sao mà quen thuộc đến thế “Bến sông trăng ôi nỗi nhớ đã đi qua mong tìm đến, biết khi nào được gặp lại em yêu hỡi. Trong cái lãnh cung của sự chia lìa, vốn không có “niềm trăng và ý nhạc” nên nhà thơ ao ước có trăng về như một niềm khao khát, một tri âm, một vị cứu tinh. Không biết thuyền có chở trăng về kịp cho người trên bến đợi hay không ? – đó là một câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Tác giả hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian ngắn ngủi của cuộc đời mình. Giờ đây đối với ông, sống là chạy đua với thời gian, ông luôn tranh thủ từng ngày, từng buổi trong cái quỹ thời gian còn quá ít ỏi của mình. Chữ “kịp” nghe thật xót xa, đau đớn, gây nên nỗi xót thương cho người đọc. Bằng câu hỏi tu từ “có chở trăng về kịp tối nay ?” cùng với hình ảnh vừa hư vừa thực ở đoạn cuối thơ vừa như khắc khoải, bồn chồn, vừa như hi vọng chờ đợi một cái gì đó đang rời xa, biết khi nào trở lại. Đây chính là nỗi ước ao tha thiết với một nỗi buồn man mác của Hàn Mặc Tử khi vọng nhớ về thôn Vĩ Dạ. Tiếp nối mạch thơ trên, khổ thơ thứ ba thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi nhân trong cái mênh mông, bao la của trời đất. Đó là sự hi vọng, chờ đợi, mong mỏi và một niềm khắc khoải khôn nguôi. Mặc dù lời thơ thấm đẫm cái buồn của tâm trạng nhưng tác giả vẫn không quên gợi cho ta về cảnh đẹp của Huế cũng như con người ở đây “Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà ?” Vườn đẹp, trăng đẹp và bây giờ là đến hình bóng đẹp của người “khách đường xa”. Điệp từ “khách đường xa” kết hợp với nhịp thơ 4/3 thể hiện nỗi niềm trông ngóng đến da diết của tác giả. Đây còn là cách nói về nỗi cách xa nhưng không chỉ có không gian mà còn có sự xa cách về tâm hồn và tình cảm. Có thể “đường xa” là xa về không gian, về thời gian nhưng cũng có thể là “đường đến trái tim xa”, cho nên tất cả chỉ gói gọn trong một chữ “mơ” duy nhất. Hình ảnh “sương khói” cùng với cụm từ “nhìn không ra” gợi lên hình ảnh của cô gái thôn Vĩ ngày xưa chập chờn trong cõi mộng tạo cho nhà thơ một cảm giác bâng khuâng, ngơ ngẩn. Mà tại sao lại “nhìn không ra” ? Có lẽ là do màu áo trắng của cô gái Huế trắng quá hòa lẫn vào làn sương mờ ảo. Thật ra “nhìn không ra” không phải là không nhìn ra, đây chỉ là một cách nói để cực tả sắc trắng – trắng một cách kì lạ, bất ngờ. Và hình như giữa giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà ?” “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” phác họa một cảnh tượng mờ mờ, ảo ảo lại còn có cả sương và khói khiến cho ta thấy con người này đang ở ranh giới giữa hai thế giới sống và chết, và thế giới nào cũng lờ mờ đáng sợ. Câu thơ diễn tả rất đắt nỗi đau của một con người đang phải đối đầu với “sinh, lão, bệnh, tử”. Tác giả đã cố níu kéo, cố bám víu nhưng không được vì cảnh và đời chỉ toàn là “sương” với “khói”. Điều đặc biệt ở hai câu thơ này là ngoài nói về nỗi đau, tác giả còn miêu tả rất thực về cảnh Huế – kinh thành sương khói. Trong màn sương khói ấy, con người như nhòa đi và có thể tình người cũng nhòa đi nên tác giả rất sợ điều đó. Tác giả không dám khẳng định tình mình với cô gái Huế mà chỉ nói “ai”– điệp từ “ai” dường như xuyên suốt cả bài thơ, khổ thơ nào cũng có sự hiện diện của “ai”, từ “vườn ai”, “thuyền ai” và bây giờ thì “ai biết tình ai có đậm đà”. Câu thơ ngân xa như một tiếng than, nỗi đau của Hàn Mặc Tử như đang trải ra, vào cõi mênh mông vô cùng. Lời thơ dường như nhắc nhở nhưng không bộc lộ tuyệt vọng hay hi vọng mà là toát lên một sự thất vọng. Sự thất vọng của một thi nhân – người chủ của những mối tình “khuấy” mãi không thành khối, của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Lời thơ như một lời thanh minh khiến cho ta cảm thấy cảm thông và xót xa cho tác giả nhiều hơn. Bài thơ bắt đầu là một câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?” và kết thúc bài thơ cũng là một câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà ?” khiến cho nỗi niềm của tác giả được đẩy thêm tầm vóc. Những câu hỏi tu từ trong bài dường như cứ xoáy lên mỗi lúc một cao hơn ? Cảnh vật thì đẹp nhưng những hình ảnh về mảnh vườn xanh mướt, về bến sông trăng, về con thuyền và cả mối tình của tác giả dường như vô tình làm nhòe đi để tạo nét mênh mang, phù hợp với tâm trạng của nhà thơ – một con người đang ở giữa hai bờ của sự sống và cái chết. Cảnh thật lung linh, huyền ảo, đầy thơ mộng nhưng lồng vào đấy là tâm trạng của chủ thể trữ tình thì cũng trở nên buồn, buồn nhưng mà có hồn. Thật vậy, âm hưởng của bài thơ chỉ cô đúc trong một chữ “buồn” nhưng không làm cho người ta bi lụy, bởi đằng sau nỗi niềm ấy của thi nhân ta thấy được một tình yêu thiên nhiên mãnh liệt, nồng cháy và một khát vọng về cuộc sống ấm tình hơn. Những chi tiết, những thủ pháp nghệ thuật, cách cấu tứ đã được Hàn Mặc Tử chuyên chở bằng chính tình cảm của mình. Đọc cả bài thơ, ta không thấy có cái gì gượng ép, ngược lại ta như đang cùng sống với nhà thơ trong cái thế giới huyền ảo của ông. Bài thơ là sự kết hợp, giao hòa giữa tình và cảnh bộc lộ những nét đẹp, những nét trong sáng gắn với quê hương Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh đẹp về cảnh và người của một miền quê đất nước qua tâm hồn thơ mộng, giàu trí tưởng tượng và đầy yêu thương của một nhà thơ đa tình đa cảm. Bằng thủ pháp nghệ thuật liên tưởng cùng với những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, tác giả Hàn Mặc Tử đã phác họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống và ẩn trong đấy là nỗi lòng của chính nhà thơ nỗi đau đớn trước sự cô đơn, buồn chán trần thế, đau cho số phận ngắn ngủi của mình. Dầu vậy nhưng ông vẫn sống hết mình trong sự đau đớn của tinh thần và thể xác. Điều đó chứng tỏ ông không buông thả mình trong dòng sông số phận mà luôn cố gắng vượt lên nó để khi xa lìa cõi đời sẽ không còn gì phải hối tiếc. Trải qua bao năm tháng, cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi và day dứt trong lòng người đọc. “Tình yêu trong ước mơ của con người đau đớn ấy có sức bay bổng kì lạ” nhưng nó cũng giản dị, trong sáng và tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ. Đây là một nghệ sĩ tài hoa, một trái tim suốt cuộc đời luôn thổn thức tình yêu, một tâm hồn thi sĩ đã biến những nỗi đau thương, bất hạnh của đời mình thành những đóa hoa thơ, mà trong đó thơm ngát nhất, thanh khiết nhất là “Đây thôn Vĩ Dạ”. NguyenHuuAnhTuan – Trang This entry was posted on 12/08/2011, 817 pm and is filed under Đời sống xã hội. You can follow any responses to this entry through RSS You can leave a response, or trackback from your own site.
Đây Thôn Vĩ Dạ ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích Bài Thơ ✅ Giới Thiệu Đến Bạn Đọc Hoàn Cảnh Sáng Tác, Bố Cục, Ý Nghĩa Nhan Đề. Nội Dung Bài Thơ Đây Thôn Vĩ DạVề Nhà Thơ Hàn Mặc TửVề Tác Phẩm Đây Thôn Vĩ DạHoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Đây Thôn Vĩ DạÝ Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Đây Thôn Vĩ DạGiá Trị Tác Phẩm Đây Thôn Vĩ DạGiá trị nội dungGiá trị nghệ thuậtBố Cục Đây Thôn Vĩ DạDàn Ý Đây Thôn Vĩ DạSơ Đồ Tư Duy Đây Thôn Vĩ Dạ5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Hay Nhất Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Ấn Tượng – Mẫu 1Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Chọn Lọc – Mẫu 2Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Đặc Sắc – Mẫu 3Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Nổi Bật – Mẫu 4Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Tiêu Biểu – Mẫu 5 Nhắc tới nhà thơ Hàn Mặc Tử không thể không nhắc tới bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. “Đậy thôn Vĩ Dạ” đã gắn chặt với thi sĩ họ Hàn như hình với bóng, vì đây là bài thơ vừa thể hiện cái tài, lại vừa thể hiện cái tình; cái tâm của Hàn Mạc Tử. Cùng đọc Nội Dung Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ đầy đủ bên dưới. Đây thôn Vĩ DạTác giả Hàn Mặc Tử Sao anh không về chơi thôn Vĩ?Nhìn nắng hàng cau nắng mới ai mướt quá, xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điền. Gió theo lối gió, mây đường mây,Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,Có chở trăng về kịp tối nay? Mơ khách đường xa, khách đường xa,Áo em trắng quá nhìn không ra…Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,Ai biết tình ai có đậm đà? Cập nhật thêm tác phẩm 💌 Tràng Giang [Huy Cận] 💌 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích Bài Thơ Về Nhà Thơ Hàn Mặc Tử Sau đây là những thông tin chính Về Nhà Thơ Hàn Mặc Tử. Hàn Mặc Tử 1912 – 1940, tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí. Quê ở làng Lệ Mỹ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Đồng Hới nay là tỉnh Quảng Bình trong một gia đình viên chức nghèo theo đạo Thiên Chúa. Cha của ông mất sớm, Hàn Mặc Tử sống với mẹ ở Quy Nhơn và học trung học ở trường Pe-lơ-ranh ở Huế hai năm. Sau đó ông về làm công chức ở Sở Đạc điền Bình Định, rồi vào Sài Gòn làm báo. Năm 1936, Hàn Mặc Tử bị mắc bệnh phong, về ở tại Quy Nhơn chữa bệnh và mất tại trại phong Quy Hòa. Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới. Ông làm thơ từ năm 14, 15 tuổi với các bút danh như Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh… Ban đầu, ông sáng tác theo khuynh hướng thơ Đường cổ điển, sau đó thì chuyển hẳn sang khuynh hướng lãng mạn. Hồn thơ Hàn Mặc Từ nổi bật với những tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời trần thế. Các tác phẩm chính Gái quê 1936, thơ, Thơ Điên 1938, sau đổi thành Đau thương, Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ kịch thơ, 1939… Tham khảo phân tích tác phẩm 🌸 Vội Vàng [Xuân Diệu] 🌸 Sơ Đồ Tư Duy, Phân Tích, Dàn Ý Về Tác Phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ Về Tác Phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ, bài thơ lúc đầu có tên là Ở đây thôn Vĩ Dạ, sáng tác năm 1938 in trong tập Thơ Điên về sau đổi thành Đau thương. “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ đặc sắc bậc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử, bài thơ là bức tranh hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên trong trẻo với tâm hồn suy tư, xót xa của cái tôi trữ tình. Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Cùng tìm hiểu Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ sau đây. Bài thơ lấy cảm hứng từ mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử dành cho người con gái xứ Huế Trong thời gian làm việc tại sở Đạc Điền tỉnh Quy Nhơn, ông đã đem lòng yêu cô con gái tên Hoàng Cúc, một thiếu nữ với vẻ đẹp kín đáo, chân quê. Tuy nhiên, do bản tính nhút nhát, rụt rè mà Mặc Tử chỉ dám đứng từ xa nhìn cô gái và mối tình đơn phương đó đã dần phai nhạt khi Hoàng Cúc theo cha về thôn Vĩ Dạ Huế. Khi biết được tình cảm của Mặc Tử dành cho nàng Cúc và biết được bệnh tình nghiêm trọng của Hàn Mặc Tử lúc đó, anh họ nàng đồng thời là bạn của thi sĩ họ Hàn – Hoàng Tùng Ngâm viết thư cho Hoàng Cúc để mong nàng viết thư động viên Hàn Mặc Tử. Thay vì viết thư thăm hỏi đơn thuần, Hoàng Cúc đã gửi kèm một bức bưu ảnh có in hình phong cảnh thiên nhiên Vĩ Dạ. Chính từ bức ảnh và mối tình tha thiết với người con gái xứ Huế đã khơi gợi xúc cảm, trở thành nguồn cảm hứng để Hàn Mặc Tử viết bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ này. Chia sẻ cho bạn đọc tác phẩm🔻 Hầu Trời [Tản Đà] 🔻 Sơ Đồ Tư Duy, Mẫu Phân Tích Hay Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Chia sẻ cho các bạn Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ. Đặt tên tác phẩm là Đây thôn Vĩ Dạ chứ không phải Thôn Vĩ Dạ vì Hàn Mặc Tử muốn người đọc tinh ý nhận ra dụng ý của từ đây. Nó như một lời giới thiệu đến người đọc về đất Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Từ “Đây” – nó mang ý nghĩa như một sự nhấn mạnh đối với một sự vật, sự việc nào đó. Đồng thời cũng cho thấy nhà thơ như đang đặt tay lên lồng ngực mình, gọi những tiếng thân thương Vĩ Dạ, Vĩ Dạ ở Huế, Vĩ Dạ cũng ở “đây”, trong tim Hàn Mặc Tử. Giá Trị Tác Phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ Ngay sau đây là những Giá Trị Tác Phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ. Giá trị nội dung Cả bài thơ là một bức tranh thôn Vĩ vừa mang vẻ đẹp rất thực với tất cả nét trong sáng, tinh khôi, thơ mộng với những đặc trưng của thiên nhiên xứ Huế. Nhưng dường như những hình ảnh ấy mơ hồ, mờ nhòe như thực, như ảo. Tất cả được tái hiện lại qua kí ức của người nghệ sĩ. Ba khổ thơ với những hình ảnh dường như không liên quan nhưng sự thực chúng là những mảnh ghép kí ức của nhà thơ. Đồng thời cũng là nỗi đau đớn, quằn quại của Hàn Mặc Tử khi khao khát được sống, tha thiết với đời còn quá sâu nặng mà thời gian còn lại của đời người lại quá ngắn ngủi. => Bài thơ vừa là tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước nhưng đồng thời cũng là khao khát sống đến cháy bỏng của nhà thơ. Giá trị nghệ thuật Mạch thơ đứt nối không theo tính liên tục của thời gian và duy nhất của không gian nhưng lại diễn tả mạch vận động nhất quán của dòng tâm tư Hình ảnh độc đáo giàu sức gợi, ngôn ngữ cực tả trong sáng, súc tích khiến cho trường liên tưởng được mở rộng, khung cảnh thiên nhiên trở nên đẫy đà, giàu sức sống để nhấn mạnh hơn khao khát sống của người nghệ sĩ Sử dụng hàng lọat câu hỏi tu từ, giọng điệu da diết khắc khoải khiến cho bài thơ đọng lại trong lòng người đọc là một nỗi băn khoăn, day dứt về cuộc đời. Xem ngay về tác phẩm 🌻Lưu Biệt Khi Xuất Dương🌻 Sơ Đồ Tư Duy, Các Bài Phân Tích Hay Bố Cục Đây Thôn Vĩ Dạ Bố Cục Đây Thôn Vĩ Dạ gồm 3 phần chính như sau Phần 1. Khổ thơ thứ nhất Khung cảnh thiên nhiên nơi thôn Vĩ. Phần 2. Khổ thơ thứ hai Khung cảnh sông nước đêm trăng, tâm trạng của nhà thơ. Phần 3. Khổ thơ cuối cùng Khát vọng tình yêu, cuộc sống của nhà thơ. Dàn Ý Đây Thôn Vĩ Dạ Cùng tham khảo thêm Dàn Ý Đây Thôn Vĩ Dạ nhé. I. Mở bài – Hàn Mặc Tử là nhà thơ có dấu ấn cái tôi khác biệt trong phong trào Thơ mới. Điển hình là trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, con người ông được bộc lộ một cách rõ nét nhất. II. Thân bài – Hàn Mặc Tử là con người yêu thiên nhiên, cuộc sống “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” vừa là câu hỏi, vừa là lời chào mời. Lời thơ nhẹ nhàng gợi nhắc đến bóng dáng xưa cũ, ở đó có người con gái Huế ông thương. Bao nhiêu kỉ niệm ùa về với cảnh sắc thiên nhiên trữ tình. “Nắng mới lên” là nắng mới, không quá gay gắt, ánh nắng nhẹ nhàng khiến mọi người đều cảm thấy dễ chịu. Ấn tượng nhất là hình ảnh “lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Chữ “điền” ở đây có thể chỉ hình ảnh cánh cửa sổ ngôi nhà hay cũng chính là hình ảnh thấp thoáng của người con gái có gương mặt phúc hậu xứ Huế. → Dù không được trở lại thăm thôn Vĩ Dạ nhưng mọi hình ảnh nơi đây vẫn được nhà thơ Hàn Mặc Tử lưu giữ với niềm mến thương khôn xiết. Thôn Vĩ với ông là một niềm ước vọng lớn nhưng cũng đầy nên thơ và trữ tình. – Hàn Mặc Tử là con người cô đơn Khổ 2 của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là tâm trạng đầy đau buồn, nhớ nhung của nhà thơ Hàn Mặc Tử “Gió theo lối gió, mây đường mây … Có chở trăng về kịp tối nay” Sử dụng biện pháp nhân hóa, dòng nước dường như cũng buồn thay cho tâm trạng của tác giả. Nhịp thơ 4/3 ngăn cách; không gian trong bài thơ cũng trở nên sâu lắng hơn. “Gió theo lối gió, mây đường mây”, mọi thứ chia đôi ngả, gần mà xa xôi cách trở như chính câu chuyện của tác giả vậy. “Thuyền ai” gợi cảm giác vừa quen, vừa lạ. → Hàn Mặc Tử như đã nhuộm màu tâm trạng cho khổ thơ, ở đó ông cũng khát khao được yêu, được chiếm lấy tình yêu nhưng không còn đủ thời gian nữa. – Hàn Mặc Tử – con người đầy trăn trở, day dứt Khổ 3 cũng là khổ cuối của bài thơ là tâm tình của tác giả với người con gái Huế “Mơ khách đường xa, khách đường xa … Ai biết tình ai có đậm đà”. Con người, cảnh vật giờ đây đang dần mờ nhạt và biến mất. “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”, mọi vật như đang được đan xen vào nhau, thật khó để phân biệt rạch ròi. “Ai biết tình ai có đậm đà”, tác giả hoài niệm rồi lại bâng khuâng, hụt hẫng. → Hàn Mặc Tử trở về hiện tại, ông cảm nhận rõ hơn về sự xa xôi, hư ảo của hạnh phúc rồi lại tự mình thở dài, nhớ mong. III. Kết bài – Hàn Mặc Tử là con người đầy ước vọng và đau buồn. Thơ ông khiến người đọc cảm thấy day dứt, ám ảnh một nỗi buồn không thể viết thành tên. Giới thiệu đến bạn đọc 💚 Chí Phèo [Nam Cao] 💚 Sơ đồ tư duy, phân tích hay nhất Sơ Đồ Tư Duy Đây Thôn Vĩ Dạ Chia sẻ bạn đọc các Sơ Đồ Tư Duy Đây Thôn Vĩ Dạ. Sơ Đồ Tư Duy Phân Tích Đây Thôn Vĩ Dạ Sơ Đồ Tư Duy Đây Thôn Vĩ Dạ Dễ Hiểu Sơ Đồ Tư Duy Bức Tranh Thiên Nhiên Đây Thôn Vĩ Dạ Sơ Đồ Tư Duy Đây Thôn Vĩ Dạ Chi Tiết Sơ Đồ Tư Duy Đây Thôn Vĩ Dạ Đầy Đủ Sơ Đồ Tư Duy Đây Thôn Vĩ Dạ Chọn Lọc Có thể bạn quan tâm 🌿 Hạnh Phúc Của Một Tang Gia 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật 5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Hay Nhất Tham khảo ngay 5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Hay Nhất bên dưới. Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Ấn Tượng – Mẫu 1 Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hoà vào lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hoà vào nhau. Mở bài đầu thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình. Sao anh không về chơi thôn Vĩ. Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa bao yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối của cô gái đối với người yêu. Vì đã bỏ qua được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn mà, ấm áp tình quê của thôn Vĩ. Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điền. Nét đặc sắc của thôn Vĩ – quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu liên đây đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc. Hình ảnh nắng chiếu vào những vườn cau làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên một sự ngạc nhiên đên thẫn thờ. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra, nhắm mắt lại ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của vườn cây. Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế. Mặt chữ điền – khuôn mặt ấy càng hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực. Thôn Vĩ Dạ nằm cảnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả cảnh làng quê ở khổ thơ đầu hé mở tình yêu. Gió theo lối gió mây đường mây….Có chở trăng về kịp tối nay ? Gió và mây để gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang. Thì nay lại càng buồn hơn gió đi theo đường gió, mây đi theo đường mây, gió và mây xa nhau. Không thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà thơ đối với người yêu có thể là vĩnh viễn. Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau buồn, u uất Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt, ảm đạm như màu khói. Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diễn đạt, thật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy Thuyền ai đậu bến sông trăng đóCỏ chở trăng về kịp tối nay? Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh sáng, một ánh trăng chiếu xuống dòng sông. Làm cho cả dòng sông và những bãi bồi lung linh. Dòng nước buồn thiu đã hoá thành dòng sông trăng lung linh. Trăng biến thành vô lường, khi hữu thể khi vô hình, khi mê hoặc khi kinh hoàng Thuyền ai đậu đên sông trăng đóCó chở trăng về kịp tôi nay? Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp trở về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình. Nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi. Nhưng hiện tại, con người đang sống và đang tiếp tục giấc mơ Mơ khách đường xa, khách đường xa…Ai biết tình ai có đậm đà ? Trái tim khao khái yêu thương, những nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hi vọng. Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ Ở đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đà? Câu thơ đã tả thực cảnh Huế – kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con người như nhoà đi và có thể tình người cũng nhoà đi? Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ nói Ai biết tình ai có đậm đà ? Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vọng. Đó chỉ là sự thất vọng. Sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Chọn Lọc – Mẫu 2 Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới. Thơ của ông nổi bật với những đường nét và màu sắc riêng khi thì táo bạo ấn tượng, khi thì thanh trong thoát tục. Đặc biệt là bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã để lại nhiều tình cảm trong trẻo trong lòng người đọc. Bài thơ bắt đầu với câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Khi làm bài thơ này, Hàn Mạc Tử đang ở trại phong Tuy Hòa và nhận được bức ảnh của Hoàng Cúc về miền quê xứ Huế. Ông theo đó mà miêu tả những đường nét của xứ Huế qua trí nhớ mà bức ảnh gợi lại. Câu hỏi tu từ đã bộc lộ khao khát của nhà thơ mong muốn được trở về thôn Vĩ. Từ đó, bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ hiện lên với vẻ đẹp “Nhìn nắng hàng cau nắng mới ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điền” Trong tưởng tượng của người đọc, bức tranh tươi đẹp về thiên nhiên, con người xứ Huế được hiện lên nên thơ, yên bình. Màu sắc nổi bật là màu nắng tươi mới trên bầu trời cao xanh. Cùng với đó là từ “mướt” trong câu thơ gợi cho người đọc cảm giác xanh tươi lạ thường, có liên tưởng mảnh vườn nhỏ y như một viên ngọc thanh thoát mà đồng nội giữa cảnh sắc xứ Huế. Đặc biệt, hình ảnh con người xứ Huế hiện lên hiền lành, đôn hậu với “khuôn mặt chữ điền” ấn lấp sau lá trúc, một biểu tượng cho sự thanh tao của người quân tử. Có thể đó là khuôn mặt dễ mến, đôn hậu của con người xứ Huế trong tâm thức nhà thơ cũng có thể là hình ảnh người con gái Huế thân thương dịu dàng. Đến khổ thơ thứ hai, nhà thơ lại khắc họa bức tranh thiên nhiên sông nước đêm trăng “Gió theo lối gió, mây đường mây,Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…” “Gió” và “mây” vốn là hai hiện tượng thân thiết nhưng ở câu thơ của Hàn Mạc Tử thì lại mỗi thứ một đường, tạo một sự chia xa khó tả. Không chỉ có vậy, sự êm đềm của dòng sông xứ Huế lại tạt vào lòng người cảm giác “buồn thiu”, những cánh hoa bắp “lay” cũng gợi sự mỏng manh yếu ớt khiến cho cả không gian nhuốm màu thê lương, buồn bã. Trong khung cảnh thiên nhiên đó, câu hỏi cất lên “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,Có chở trăng về kịp tối nay?” Câu hỏi nhẹ nhàng nhưng nặng trĩu sự lo lắng, sự thấp thỏm, không biết liệu rằng có còn kịp hay không? Kịp để nhìn thấy sự tươi đẹp của cuộc đời, của con người, có kịp làm điều mong ước, tất cả đều là sự khát khao giao cảm đến tột cùng khi con người ta phải xa với đời trong chốn cô đơn và ngày ngày chờ đến lời phán quyết cuối cùng của cuộc đời mình. Ở đoạn thơ thứ ba, khát khoa này càng bộc lộ rõ hơn bao giờ hết “Mơ khách đường xa, khách đường xaÁo em trắng quá nhìn không raỞ đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đà?” Điệp từ “khách đường xa” được lập lại như thể nhấn mạnh sự ước ao, sự lưu ý bao nhiêu ngày tháng. Màu trắng là màu sắc rất hay xuất hiện trong thơ của Hàn Mạc Tử, luôn là biểu hiện của sự tinh khôi thanh khiết, giống y như nàng trinh nữ, lúc nào cũng trắng trong tuyệt vời. Nhưng có lẽ do màu trắng tinh khôi của áo mà trong giấc mơ của mình, Hàn Mạc Tử đã không thể nhìn rõ cô gái, bởi sương khói mông lung đã làm mờ nhạt cả trí nhớ, chỉ còn lại sự thanh khiết không gì nhạt phai. Kết thúc bài thơ, một câu hỏi tu từ lại được thốt lên hết sức thiết tha “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Câu hỏi tu từ với đại từ phiếm chỉ “ai” như bộc lộ một niềm khao khát được sống, được yêu thương. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong số ít những bài thơ không mang những nét u buồn thất vọng về cuộc đời nhưng cũng không hẳn là mang âm hưởng vui tươi. Tuy nhiên người đọc vẫn nhận ra những tình cảm hết sức sâu sắc, yêu đời, yêu đời và khát khao giao cảm. Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Đặc Sắc – Mẫu 3 Nhà thơ Hàn Mặc Tử, một trong những thi sĩ nổi danh với trường thơ “điên” cùng những hồn thơ tha thiết, trong trẻo lại vừa quằn quại, đau đớn đến tột cùng. Mỗi tác phẩm của Hàn Mặc Tử đều để lại những dấu ấn khó quên trong lòng người đọc, tiêu biểu trong số đó là tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ. Bài thơ không chỉ vẽ nên bức tranh thiên nhiên xứ Huế trong trẻo, căng tràn nhựa sống mà qua đó còn thể hiện nỗi khao khát về tình đời, tình người trong tâm hồn thi sĩ. Bằng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với ngôn ngữ giản dị mà giàu giá trị biểu đạt, Hàn Mặc Tử đã cất tiếng nói của trái tim mình một cách đầy chân thành và tha thiết. Mở đầu bài thơ là câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?” Câu hỏi tu từ vừa như trách móc lại vừa như mời gọi ấy khiến người đọc nhớ đến mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với Hoàng Thị Kim Cúc – người con gái xứ Huế. Phải chăng vì nuối tiếc những điều xưa cũ, những lời chưa kịp tỏ bày mà tác giả đang tự vấn chính mình trong nỗi khắc khoải khôn nguôi rằng sao không trở về thăm lại thôn Huế, vùng quê thanh bình mà yên ả mà mình từng gắn bó. Lời giục giã ẩn sau câu thơ bảy chữ cũng là tiếng lòng trách móc bản thân của nhân vật trữ tình. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại chọn “thôn Vĩ’ làm hình ảnh trung tâm, gợi thương gợi nhớ. Bởi nơi đây chứa chan những cảnh sắc thi vị, hài hòa, nơi mà thi nhân từng gắn bó, yêu thương. Một mảnh vườn thôn Vĩ dần hiện ra trước mắt sau mớ ngôn từ được sắp đặt đầy chủ ý “Nhìn nắng hàng cau , nắng mới lênVườn ai mướt quá, xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điền” Trong tâm hồn ấy, hẳn thôn Vĩ phải giữ một vị trí vô cùng đặc biệt, tác giả mới viết nên những vần thơ đẹp đến xao lòng như thế. Khu vườn thôn Vĩ xanh non, biếc rờn mơn mởn sự sống được gợi mở ra trước mắt người đọc. Đó là “nắng hàng cau” ánh nắng thanh khiết, ấm áp chứa hình ảnh quê nhà “hàng cau” đang “tắm” mình dưới ánh nắng ban mai. “Xanh như ngọc” là cách so sánh độc đáo gợi tả vẻ đẹp xanh non, tươi tắn của cây lá trong khu vườn. Trong khung cảnh tươi đẹp, căng tràn sức sống của thiên nhiên thôn Vĩ, hình ảnh người con xứ Huế xuất hiện sau hàng trúc. “Lá trúc chen ngang mặt chữ điền” gợi ra vẻ đẹp dịu dàng, phúc hậu của người con gái Huế. Sự hài hòa giữa cảnh và người nơi thôn Vĩ làm cho bức tranh thơ trở nên bình yên và ngọt ngào quá đỗi. Thiên nhiên đẹp quá khiến lòng người thổn thức, thi nhân đang ở một nơi xa xôi mà nhớ về chốn cũ bằng cả lý trí, tâm hồn và trái tim mình. Đằng sau bức tranh cảnh thiên nhiên đẹp ấy phải chẳng là những vệt màu tâm trạng chôn giấu bấy lâu trong lòng người. Đó là nỗi nhớ thương, là khát khao được trở về, là mong ngóng được gặp người, gặp cảnh, là thiết tha được tâm giao với người mình thương sau những tháng năm mòn mỏi đợi chờ. Nỗi nhớ hòa trong tình yêu, nỗi nhờ hòa trong hoài niệm, nỗi nhớ hòa trong tưởng tượng, tất cả đã vẽ nên một bức tranh thật buồn, thât đẹp và cũng thật nên thơ. Bước sang khổ thơ thứ hai, nỗi khát khao tình người, tình đời của thi nhân càng rõ rệt, thấm trong từng hơi thở của ngôn từ “Gió theo lối gió, mây đường mâyDòng nước buồn thiu hoa bắp layThuyền ai đậu bến sông trăng đóCó chở trăng về kịp tối nay” Cảnh vật chìa lìa đôi ngả, không gian nhuốm màu chia ly. Nhịp thơ 4/3 kết hợp cùng các hình ảnh tương phản, đối lập “gió theo lối gió, mây đường mây” gợi lên nỗi buồn của sự chia xa. Mây gió vốn đi cùng nhau “gió thổi, mây bay” giờ đây lại như hai kẻ ngược dòng, ngược lối. Còn gì đau đớn hơn khi một kẻ khát khao gặp gỡ, khát khao được giao cảm với con người, cuộc đời nhưng chỉ thấy sự đơn độc, chia li. Sự chia xa ấy, phải chăng còn là dự cảm về một sự chẳng lành trong tương lại khi tác giả phải chia lìa cõi trần gian trong cảnh bạo bệnh? Không còn là những vần thơ mang màu sự sống như khổ thơ thứ nhất nữa, sang đến những dòng thơ hiện tại, Hàn Mặc Tử nhìn đâu cũng thấy nỗi buồn “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được tác giả tiếp tục sử dụng như một phương tiện bộc bạch tâm trạng, bởi vốn ”Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầuNgười buồn cảnh có vui đâu bao giờ” Dòng sông buồn với những cánh hoa bắp lay nhẹ trong gió, hờ hững và tẹ nhạt. Phép nhân hóa “dòng nước buồn thiu”càng làm cho dòng sông thêm tâm trạng. “Dòng nước buồn thiu” là vì đâu? Vì gió, mây đôi ngả hay vì lòng ta đa mang? Giữa dòng nước buồn thiu, giữa dòng đời buồn tênh ấy, nhân vật trữ tình mong mỏi được ai đó đến để kịp sẻ chia, kịp dốc bầu tâm sự “Thuyền ai đậu bến sông trăng đóCó chở trăng về kịp tối nay?“ Bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, không gian đêm tối tràn ngập ánh trăng. Kẻ cô đơn thường tìm đến trăng bầu bạn, xem trăng là tri kỉ, là bạn tâm giao. Hàn Mặc Tử cũng không nằm ngoài nỗi niềm ấy. Thi nhân đang khát trăng, mong cho thuyền chở trăng về “kịp”, bởi với một người cái chết đang cận kề trong gang tấc, thời gian nào có thể chờ đợi. Ngày tháng còn lại quá ít ỏi, đếm vị thời gian mà lòng đau đớn khôn nguôi, chữ “kịp” cất lên nghe sao thật xót xa, đau đáu. Sự khắc khoải, chờ đợi, mong mỏi, hy vọng, khát khao mãnh liệt được giao cảm như dồn hết vào dòng thơ ấy. “Mơ khách đường xa, khách đường xaÁo em trắng quá nhìn không raỞ đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đà ?” Nỗi khát khao càng lớn, tác giả càng muốn tìm về mộng tưởng để thỏa nỗi niềm nhung nhớ. Một giấc mơ có bóng hình người con gái xuất hiện. Nhịp thơ 4/3 kết hợp với điệp ngữ “khách đường xa” cùng động từ “mơ” càng tô đậm nỗi ngóng trông da diết của nhân vật trữ tình. Hình ảnh “đường xa” gợi khung cảnh về không gian, hình ảnh giấc mơ gợi khoảng cách về thời gian, tứ thơ gợi khoảng cách về lòng người. Liệu rằng tâm hồn này thương say đắm, yêu say đắm, chờ đợi da diết mà lòng ai có thấu, tình ai có tỏ hay không? “Ở đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đà?” Hình ảnh “nhân ảnh” mờ trong “sương khói” cùng với cụm từ “nhìn không ra” càng gợi nỗi bâng khuâng, hoài vọng của thi nhân. Nhưng sau tất cả, dường như chỉ nhận lại toàn những thất vọng, hụt hẫng, nuối tiếc mà thôi “Ai biết tình ai có đậm đà ?” m hưởng bài thơ có nhớ thương, có buồn đau, có hy vọng cũng không ít hụt hẫng và đau đớn, nhưng sau những điều ấy là một trái tim tha thiết với cuộc đời, khát khao sống và được sống để tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên, được giao cảm với tình người, tình đời. Có thể nói, Đây thôn Vĩ Dạ là một tác phẩm xuất sắc trong làng thơ Mới với sự kết hợp hài hòa giữa cảnh và tình cùng những biện pháp nghệ thuật độc đáo. Hàn Mặc Tử không chỉ dùng ngôn ngữ nghệ thuật để bộc bạch tâm trạng mà còn dùng cả tiếng nói của con tim để giãi bày cùng nhân thế. Tác phẩm như một bông hoa dại trong vườn thơ của văn học nước nhà, không sắc thơm mà vẫn tỏa hương ngào ngạt. Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Nổi Bật – Mẫu 4 Hàn Mặc Tử đã mang cả tiếng lòng quằn quại, đớn đau của mình vào trong thơ, để kiếm tìm sự đồng điệu của những điệu hồn. Đây Thôn Vĩ Dạ là một trong những kiệt tác của Hàn Mặc Tử mà ở đó người đọc dường như thấy một cái tôi đang đau đớn trong mặc cảm về sự chia lìa, đồng thời thấy được một hồn thơ với tình yêu đời, lòng khát sống mãnh liệt mà cũng đầy uẩn khúc, bế tắc của Hàn Mặc Tử. Mở đầu bài thơ là một câu hỏi, mà cũng như đã là một câu trả lời, hay một lời trách móc ý nhị, mà có chăng cũng là một lời mời đầy bất lực để tiếp đó dẫn người đọc vào bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ tươi đẹp, giàu sức sống “Sao anh không về chơi thôn VĩNhìn nắng hàng cau nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điền” Câu hỏi mở đầu như đã phân tích ở trên, thực chất không phải là câu hỏi đề trả lời, nó cứ buông ra thế để thành dòng độc thoại bộc lộ tâm tình của một cái tôi cô độc, cô đơn đang khao khát được đồng cảm, gắn kết. Ba câu thơ tiếp theo mở ra một không gian thôn Vĩ tươi đẹp biết bao. Nắng hàng cau mới lên, gợi lên vẻ đẹp thanh khiết, tươi mới, trong trẻo. Câu thơ hay là một câu thơ giàu sức gợi, chỉ với vài từ ngữ giản dị, nhưng lại mở ra cho ta hiểu hơn rất nhiều về hồn thơ này, rằng Hàn Mặc Tử luôn khát vọng về một vẻ đẹp tinh khiết, trong ngần, tươi mới, đó không chỉ là ngưỡng vọng của một hồn thơ, mà còn là khát khao của một tín đồ. Tiếp cái nắng trong trẻo, tươi xanh là hình ảnh “Xanh như ngọc”, vừa gợi sự sang trọng, quý giá, vừa gợi sức sống, nhựa sống căng tràn trên từng dòng thơ. Mướt gợi lên vẻ đẹp óng ả mà đầy xuân sắc, mảnh vườn bình dị bỗng chốc hiện lên đầy vẻ thanh tú cao sang mà cũng kiều diễm biết chừng nào. Câu thơ cuối hình ảnh lá trúc che ngang mặt chữ điền, gợi sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên, đồng thời cũng gợi nên vẻ đẹp cân đối hài hòa đầy hoàn hảo. Nhưng cái dị, cái bất thường cái lạ để làm nên một hồn thơ điên chính là trong khổ thơ thứ hai này đây, khi đang trong khổ trên hình ảnh tươi mới, tràn đầy sự gắn kết, sự sống thì khổ thơ thứ hai lại mang màu sắc ảm đạm ngược lại “Gió theo lối gió, mây đường mâyDòng nước buồn thiu hoa bắp layThuyền ai đậu bến sông trăng đóCó chở trăng về kịp tối nay?” Hình ảnh gió mây trong cuộc sống vốn là hai thứ không thể tách rời, mà luôn song hành với nhau, sự chia cắt trong thơ Hàn Mặc Tử của hai hình ảnh này vì thế gợi lên nhiều niềm ám ảnh cũng như đầy sức gợi. Đúng vậy, đây không còn là hình ảnh của thị giác, mà là hình ảnh của mặc cảm. Mặc cảm chia lìa đã chia lìa cả những thứ tưởng như không thể chia lìa, không gian không thể tự buồn mà bởi thi nhân đã bỏ buồn vào dòng sông “dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”. Dòng nước lững lờ, ngưng đọng, hay chính dòng đời mệt mỏi, cay đắng chảy vào lòng nhà thơ khiến thi sĩ miên man trong những nỗi buồn xa xăm. Tất cả cảnh vật, sự vật trong hai câu thơ đầu đều nhuốm mình trong mặc cảm chia lìa đau thương của Hàn Mặc Tử, đến hai câu thơ cuối, phải chăng là sự níu giữ trong tuyệt vọng của hồn thơ đầy đau thương. Từ kịp gợi sự chấp chới, chơi vơi, vô định đồng thời cũng như khắc khoải đâu đây nỗi bất lực vô định. “Có chở trăng về kịp tối nay?” Trăng dường như đã là một nơi nương tựa duy nhất, một tri âm, một cứu tinh, một cứu chuộc. Chỉ trong hai câu thơ thôi mà dường như ta thấy được bao nhiêu dồn nén chất chứa của một hồn thơ điên, nhà thơ khát khao được sống dẫu biết lưỡi hái của thần chết đang đến gần, nên vội vàng chới với trong từng phút giây để được sống, và khao khát kiếm tìm sự đồng điệu để sẻ chia. Nhưng tiếc thay “Mơ khách đường xa khách đường xaÁo em trắng quá nhìn không raỞ đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đà?” Cả “em”, cả thôn Vĩ tươi đẹp ấy đều đã vượt xa khỏi tầm với, đều là thế giới “ngoài kia” trong trẻo, tươi đẹp, tinh khôi. Đối lập hoàn toàn với thế giới tối tăm, đơn độc, lạnh lẽo trong này. Tất cả chỉ còn là mờ nhân ảnh, tiếng lòng của hồn đau không ngừng hướng ra ngoại giới để kiếm tìm sự đồng vọng, nhưng càng khao khát thì hiện thực phũ phàng lại càng đánh bật lại những đòn giáng trớ trêu. Câu hỏi cuối vang lên đầy khắc khoải, bởi đó vừa như tiếng thở dài, hay cũng là lời cầu mong của một kẻ tha thiết gắn bó đến cháy lòng. Thơ là sự lên tiếng của thân phận, trớ trêu thay định nghĩa ấy lại thật đúng với Hàn Mặc Tử, thơ ông là tiếng kêu xé lòng của một niềm đau, một hồn đau đầy cô độc, cất tiếng vọng hướng đến tìm kiếm sự đồng điệu, nhưng đáp trả mãi chỉ là những ảo ảnh thực tại đầy phũ phàng, nghiệt ngã. Đây thôn Vĩ Dạ vừa đẹp mà cũng vừa thật ám ảnh, chở đi biết bao nỗi niềm của Tử gửi vào hậu thế sau này. Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Tiêu Biểu – Mẫu 5 Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền thơ ca Việt Nam. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ. Bài thơ đã để lại cho người đọc sâu sắc về một hồn thơ thật độc đáo. Đến với khổ thơ đầu tiên, người đọc sẽ cảm nhận được một bức tranh thiên nhiên nơi thôn Vĩ tuyệt đẹp “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?Nhìn nắng hàng cau nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điền” Bài thơ được bắt đầu bằng một câu hỏi “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Câu hỏi gợi cho người đọc hai cách hiểu. Đó có thể là lời hỏi của người thôn Vĩ dành cho tác giả. Vì theo như lời được kể lại thì nguồn cảm hứng để Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ bắt nguồn từ lời thăm hỏi của cô gái thôn Vĩ khi nhà thơ đang mắc bệnh hiểm nghèo. Cô đã gửi một tấm bưu thiếp là bức tranh nơi thôn Vĩ cùng với lời nhắn gửi sao anh không về thăm lại thôn Vĩ. Đó cũng có thể là lời của chính tác giả, Hàn Mặc Tử đang tự phân thân để hỏi chính mình. Nhà thơ lúc này tuy khao khát, nhớ nhung quê hương nhưng không thể trở về. Dù hiểu theo cách nào thì chúng ta cũng thấy được nỗi nhớ quê cũng như mong muốn được về thôn Vĩ của nhà thơ. Những câu thơ tiếp theo đã khắc họa hình ảnh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ. Hình ảnh đầu tiên hiện ra “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Ánh nắng của buổi bình minh đã bao trùm khắp làng quê. Cách sử dụng điệp ngữ “nhìn nắng” – “nắng mới” thể hiện một không gian tràn đầy sức sống. Thứ ánh sáng của ngày mới đầy tinh khôi, ấm áp mang đến cho con người một luồng sinh khí mới. Tiếp đến câu thơ thứ ba lại là một câu hỏi tu từ “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Ai” là đại từ phiếm chỉ, nhà thơ không biết khu vườn kia là của ai. Từ “mướt” gợi cảm giác về một màu xanh của sự sống, lấp lánh khắp khu vườn. Cách so sánh “xanh như ngọc” khiến ta liên tưởng đến câu thơ của Xuân Diệu “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền” Thơ duyên Cuối cùng, nhà thơ khắc họa vẻ đẹp của con người xứ Huế trong câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Trong không gian thiên nhiên đó, con người chỉ thoáng xuất hiện. Hình ảnh trên lại gợi cho người đọc hai cách hiểu. Khuôn mặt chữ điền của người thôn Vĩ thấp thoáng sau tán trúc. Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu, phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương? Hay cũng có thể đó là khung cửa sổ hình chữ điền thấp thoáng sau lá trúc. Dù là cách hiểu nào thì Hàn Mặc Tử cũng đều muốn thể hiện vẻ đẹp của con người xứ Huế cũng như tình cảm dành cho con người, cảnh vật nơi đây. Đối lập với bức tranh thiên nhiên đầy tươi sáng nơi thôn Vĩ, là bức tranh sông nước đêm trăng “Gió theo lối gió, mây đường mây,Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay” Hai câu thơ mở đầu của khổ thơ thứ hai, tuy là tả cảnh nhưng khi đọc lên lại thấy nhuốm màu tâm trạng. Hình ảnh thiên nhiên gợi ra sự chia ly “gió theo lối gió, mây đường mây”. Nếu trong tự nhiên, gió và mây vốn là những sự vật luôn quấn quýt, gắn bó với nhau thì ở đây Hàn Mặc Tử lại để “mây và gió” chia cách đôi ngả. Ta tự hỏi đó là sự chia ly của thiên nhiên hay của chính con người? Và đến cả dòng nước – một sự vật vô tri, vô giác nhưng qua cái nhìn của nhà thơ giờ đây cũng có cảm xúc. Dòng nước “buồn thiu” – biện pháp tu từ nhân hóa khiến con sông giống như một con người, có tâm trạng. Cuối cùng là hình ảnh “hoa bắp lay” – bông hoa bắp nhỏ bé trôi theo dòng nước cũng giống như cuộc đời lưu lạc trôi nổi của con người. Và bức tranh sông nước trong đêm trăng thì sao có thể thiếu mất đi ánh trăng “Thuyền ai đậu bến sông trăng đóCó chở trăng về kịp tối nay?” “Trăng” đã trở thành một biểu tượng quen thuộc của thi ca. Đặc biệt trong thơ Hàn Mặc Tử thì ánh trăng xuất hiện rất nhiều. Trăng có lúc được ẩn dụ, lúc được nhân hóa làm cho nó mang một phong cách độc đáo và khác lạ, kiểu như “Trăng nằm sóng soài trên cành liễuĐợi gió đông về để lả lơi” Bẽn lẽn Hay ánh trăng có lúc trở nên thật điên cuồng “Ta nằm trong vũng trăng đêm ấySáng dậy điên cuồng mửa máu ra” Say trăng Còn ở “Đây thôn Vĩ Dạ” lại là “sông trăng” – gợi ra hình ảnh ánh trăng vàng in bóng xuống mặt nước. Ánh trăng lan tỏa ra khắp dòng sông tạo nên một dòng sông trăng. Kết thúc khổ thơ là câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Từ “kịp” được tác giả sử dụng nhằm thể hiện tâm trạng lo âu. Bởi với một người bình thường, nếu không kịp trở về vào “tối nay” thì sẽ còn những đêm khác, Còn với Hàn Mặc Tử, thì đêm nào cũng có thể là đêm cuối cùng. Khổ thơ cuối là dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình “Mơ khách đường xa, khách đường xaÁo em trắng quá nhìn không raỞ đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đà?” Giữa không gian mơ hồ giữa “ảo và mộng” của “cảnh và người”. Khung cảnh vận động từ thực đến ảo, từ khu vườn thôn Vĩ Dạ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói. Điệp ngữ “khách đường xa” như một tiếng gọi tha thiết, Hàn Mặc Tử nhớ về quê hương để rồi phải mặc cảm trong sự chia cách. Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, nửa gần gũi nửa xa xăm, nửa hoài nghi nửa như giận hờn, trách móc. Khi dùng đại từ phiếm chỉ “ai” làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn khát khao được sống, được yêu. Câu thơ làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông vô tận, tâm trạng hụt hẫng và đầy tuyệt vọng của nhà thơ. Qua phân tích trên, người đọc có thể cảm nhận được một hồn thơ mãnh liệt, luôn khát khao giao cảm với cuộc đời của Hàn Mặc Tử. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” khơi gợi được những cảm xúc trong sáng mà đầy sâu sắc.
nghệ thuật bài thơ đây thôn vĩ dạ