- Bạn chọn Bảng mã là Unicode, Kiểu gõ là Telex như trong hình. Sau đó click vào nút Đóng là xong. - Bây giờ bạn có thể gõ tiếng Việt có dấu trên máy tính Windows của mình nhé. * Đối với trình soạn thảo văn bản MS Word, bạn chú ý thêm một chút. Trong trường hợp bạn chọn kiểu gõ tiếng Việt như trên. "Sự tử tế không phải là tài sản quý theo kiểu của để dành nếu chúng ta chọn sai khi bắt đầu. Hay sự tử tế cũng không phải là món quà tự nhiên được ban tặng một cách vô tư từ ai đó mà đó là hành trình làm người, hành trình hoàn thiện bản thân mình …"- ông Sơn nói. Chỗ tôi trước thành phố phải đầu tư lắp điều hoà và đường điện cho 1 loạt trường, làm kiểu đấy mới ăn thua. Tất nhiên cái việc huy động phụ huynh đóng tiền này tôi không bênh gì cả, nhưng mà để cho trường tự làm thì làm sao quy củ chuẩn chỉ kỹ thuật được. Bún bò của trường phái này hoặc có rất ít ruốc, nước trong, dùng chả đòn cắt khoanh với thịt bò, nếu có giò heo thì giò khá lớn, tô đầy ắp thịt, hoặc có dùng mắm ruốc thì họ dùng mắm ruốc Vũng Tàu có vị đậm và mùi rất nồng, nghe như bún mắm. Mở menu Start bằng cách nhấn phím Windows. Gõ Environment variables và nhấp vào kết quả Edit the system environment variables. Màn hình cài đặt biến môi trường trong Windows sẽ hiện ra Chọn Path, sau đó click vào nút Edit để tiến hành thêm đường dẫn Click nut New, sau đó nhập đường dẫn trên, rồi nhấn nút OK > OK. Như thế là xong. Fast Money. Trường phái kiểu cách Mannerism là một trào lưu nghệ thuật xuất phát ở Ý khoảng từ 1520 tới 1580, tiếp sau thời kỳ Phục Hưng. Các nghệ sĩ trường phái kiểu cách chủ trương đề cao kỹ thuật, cần sảnh sỏi, cố dụng tâm làm sao cho thanh cao. Họ tôn thờ cái đẹp ưu khoái lạc đến mức kỳ dị, ngôn ngữ bất thường. Nghệ thuật kiểu cách bị xem như sa sút, kém hài hòa và duyên dáng so với thế hệ trước đó – Lịch sử mỹ thuật thế giới của Phạm Thị Chỉnh, trang 118. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm năm 2008. Rốt cục thì thời đại kiểu cách, phong cách của trường phái kiểu cách mannerism chính xác là cái gì? Nói một cách đơn giản, nó là đáp án khả dĩ cho câu hỏi mà nghệ thuật phương Tây đặt ra suốt thời kỳ đỉnh cao Phục Hưng “Đến đây rồi thì chúng ta sẽ đi tiếp đến đâu?”. Trong hơn ba thế kỷ, các nghệ sĩ đã nỗ lực hoàn thiện kỹ thuật hội họa để gợi lại chất lượng nghệ thuật cổ đại được tìm thấy từ Hy Lạp và La Mã, để tôn vinh những vị thần của Kinh Thánh mà họ rất mực tôn sùng. Mục tiêu của họ là hoàn toàn loại bỏ những thủ pháp nghệ thuật cổ xưa như việc phối cảnh theo thứ bậc, ở đó những nhân vật “quan trọng” được miêu tả to lớn hơn những ai được xem là không mấy quan trọng. Mục đích khác còn là để hoàn thiện những kỹ thuật như phối cảnh không gian, qua việc vẽ rút gọn theo luật xa gần foreshortening và để các sắc thái mờ hòa vào nhau sfumato vốn tạo nên độ chân thực cho chiều sâu và không gian trong bức tranh. Họa sĩ Phục Hưng muốn hoàn thiện những thứ như là “chiaroscuro” sự phối hợp màu sáng tối trong hội họa, để ánh sáng và bóng tối dường như phát ra từ cùng một nguồn duy nhất, và tạo ra cảm giác chân thực bằng việc vẽ lại chính xác tỷ lệ người và vật. Họ khao khát kiến tạo cái đẹp trong màu sắc, hình khối và xúc cảm. Như vậy, với các nghệ sĩ châu Âu mà chúng ta gọi là “Phục Hưng đời đầu” – “những họa sĩ như Giotto di Bondone 1266 – 1337 , rồi đến thời kỳ đỉnh cao Phục Hưng với cái chết của Raffaello Sanzio da Rubino hay “Raphael” 1483-1520, và Albrecht Durer 1471 – 1527, toàn bộ tâm sức của họ dồn vào hoàn thành những mục đích trên đây. Thế nhưng, thật đáng kinh ngạc, họ bằng nỗ lực đã đạt đến tuyệt đích, không ai mảy may nghĩ đến chuyện giờ đây khi đã ở đỉnh cao của tranh vẽ hai chiều, hội họa phương Tây sẽ biết đi về đâu. Cần phải hiểu, những mục đích trên kia vốn được coi như là một lời kêu gọi thiêng liêng, nó luôn là một cái đích trước mắt, một lý tưởng không thể đạt tới, một thứ mà “tất cả chúng ta cùng hướng đến”, một chiến quả đáng ao ước nhưng vượt quá tầm tay. Thật không may, tất cả những mục đích về trỗi dậy, trưởng thành và phát triển đều đã được thỏa nguyện, giờ thì sao? Ở đỉnh cao, làm sao để tiến bước? Một câu trả lời, và có lẽ là câu trả lời hay hơn, trong lĩnh vực nghệ thuật hội họa lúc ấy, là phong cách Baroque. Nhưng với Michelangelo Buonarroti, một nghệ sĩ Ý trong thời đỉnh cao Phục Hưng, người sống lâu hơn đối thủ Raphael của mình những 44 năm, thì câu trả lời cho giai đoạn 1520 – 1580 lại là trường phái kiểu cách. Ở góc nhìn nào đó, trường phái kiểu cách biểu thị một cuộc nổi loạn chống lại không khí cân bằng hài hòa bình dị của Phục Hưng. Hội họa Phục Hưng luôn coi trọng sự cân bằng, tỷ lệ, còn trường phái kiểu cách thì nhấn mạnh đến sự tao nhã trong trạng thái dị thường bất cân xứng. Trường phái kiểu cách “nhân tạo” hơn, nó ưa chuộng thứ áp lực ít tự nhiên, ít chân thực hơn so với Phục Hưng, và dùng chúng như biểu tượng hoặc vẻ đẹp phóng đại. Nhân vật trong bức vẽ thường có sự biến dạng và trừu tượng, nhưng những lựa chọn phong cách dị thường như vậy không nhất thiết phải phục vụ cho mục đích nào cả. Để rõ hơn, hãy cùng xem xét bức “Chân dung tự họa qua gương lồi” 1524 của Parmigianino dưới đây. Đầu tiên, phải nói rằng đây là bức tranh không thể có ở giai đoạn 30 năm trước đó. Nó vẽ lại chính xác hình ảnh phản chiếu trong một gương lồi. Cánh tay của chủ thể ở mặt trước cong vòng lên theo mặt cong của kính, và người xem tranh cũng thấy được sự biến dạng tương tự ở cái cửa sổ phía trên bên trái, góc mái nhà ở phía trên bên phải. Đó chính xác là những gì người ta nhìn thấy qua một gương lồi, và với những người thế kỷ 21 như chúng ta, nó có cùng ý tưởng với bức vẽ “Hand with Reflecting Sphere” của M. C. Escher. Trong cả hai bức tranh, chúng ta đều cảm thấy sự méo mó được tạo ra bởi góc nhìn qua gương lồi phản xạ, vậy vấn đề ở đây là gì? Trong bức chân dung của Parmigianino, thực ra chỉ phần nhỏ bị bóp méo. Có một bức tường phẳng đằng sau khuôn mặt chủ thể, nhưng nó phẳng, nên không có sự biến dạng. Tác dụng bóp méo chỉ là cách sắp đặt thứ yếu, thậm chí dư thừa ở viền khung, còn ở trung tâm thì không có sự bóp méo nào cả bởi nó nằm trở chính giữa gương cầu, vậy nên bức chân dung thực ra không hơn gì một bức tranh thông thường, và nó không mang đến điều gì nổi bật hơn nữa. Nó khiến người xem phải tự hỏi “Thế rốt cuộc thì ý ông là gì?”. Ngược lại, bức chân dung của Escher đã hướng sự chú ý của chúng ta tập trung vào bàn tay người nghệ sĩ và ảnh phản chiếu của nó, chứ không phải khuôn mặt. Tuy khuôn mặt nằm ở trung tâm quả cầu, nhưng đó không phải là trung tâm trong tổng thể bức tranh. Bàn tay và hình phản chiếu của nó là trung tâm, được nhấn mạnh, trong khi khuôn mặt nghệ sĩ thì thật nhỏ bé, và sự biến dạng ấy đem đến cho bức tranh một vài điểm thú vị lôi cuốn người xem. Ngoài ra, ở chỗ mà Parmigianino đặt bức tường phẳng làm nền, Escher lại vẽ giá sách, đồ đạc, hai cửa sổ ở các góc khác nhau, và một trần nhà không phẳng lắm. Nói tóm lại, Escher bày biện nhiều chi tiết hơn trong bức vẽ của mình và mang đến cho người xem nhiều sự biến dạng hơn để tâm trí họ được chơi đùa thử thách. “Madona of the Long Neck” của Parmigianino là bức tranh tinh túy của trào lưu kiểu cách. Bạn không thể nghiên cứu trường phái này nếu bỏ qua nó. Trong tranh, Madonna bị kéo dài tới điểm chụp, đứa trẻ trong lòng cô cũng vậy. Cổ của cô, may mắn thay, hài hòa tỉ lệ cùng cỡ đầu nhỏ bé, trong khi bờ vai xanh xao thì thật bất cân xứng. Có một người đàn ông, không biết vẽ vào để làm gì, ở phía dưới bên phải bức tranh, và người xem thì không có manh mối khả dĩ nhìn được để so sách kích cỡ thân thể anh với Madonna. Thông thường sẽ có vạch trên sàn nền, hoặc vài dấu hiệu biểu hiện không gian khác, nhưng ở đây thì không, và tác giả để người xem phải tự kết luận rằng anh ta chỉ là người đàn ông vô cùng nhỏ bé bên cạnh Madonna. Đằng sau anh ta là một hàng cột dài, nhưng không thấy nối với mái, và không phục vụ cho mục đích nào cả. Vị trí ánh sáng phản chiếu ra từ hàng cột ngay phía trước cho thấy rằng những cột trụ này thon thon hình búp măng, ta tạm đoán vậy. Tuy nhiên, gần gốc của hàng cột nói trên là bóng của chúng, vị trí bóng đổ xuống cho biết khoảng cách giữa các cột đúng bằng chiều rộng mỗi cột, nhưng với kích thước của chúng, độ sâu của mỗi cột có thể không nhiều hơn vài inch còn chiều rộng của chúng thì rõ ràng phải lên đến vài feet. Với tất cả những điểm đó, bức tranh cũng có vài nét đẹp cách sử dụng màu sắc tốt, những lớp quần áo được vẽ xuất sắc, biểu hiện trên khuôn mặt người ở tiền cảnh thật đẹp, nhưng dù vậy, sự kết hợp giữa chúng thì vụng về hết biết. Cứ như thể tác giả, vốn đã được coi là đại diện ưu tú của trường phái kiểu cách, tuy rất có hiểu biết về vài mặt hội họa, nhưng đã bỏ qua không biết những điểm cơ bản nhất vậy. Và kể từ khi bức “The Madonna of the Long Neck” mở đầu cho thời đại này, có thể dễ dàng kết luận từ nó rằng trào lưu kiểu cách này có lẽ không khác gì một thời đại của những tác phẩm nghệ thuật xấu xí. Nhưng nếu điều đó là đúng, chúng ta phải nhìn vào người đã khởi sinh ra trào lưu này, để xem sai lạc bắt đầu từ đâu. Ai là bậc thầy nghệ thuật đã dẫn dắt những tâm trí trẻ trung đi lạc lối? Có nhiều người như vậy từ thời đỉnh cao Phục Hưng, nhưng cái tên nổi tiếng nhất là Michelangelo. Giai đoạn 1508 – 1512 Michelangelo đang vẽ trần nhà nguyện Sistine ở thành phố Vatican, Rome. Với nghệ thuật hai chiều thời Phục Hưng, tranh trần nhà nguyện của Michelangelo là kiệt tác và là nền tảng của giai đoạn đỉnh cao. Nó dài 131 feet, rộng 43 feet, diện tích là 5633 feet vuông, chứa 47 bức bích họa tuyệt đẹp kể câu chuyện về sự sa ngã của con người từ cuốn sách Genesis. Hai mươi ba năm sau, tức là mười lăm năn sau cái chết của Raphael, cũng là lúc đánh dấu sự kết thúc của giai đoạn đỉnh cao Phụ Hưng ở nam châu Âu Ở bắc Âu, thời điểm 1528 được sử dụng vì nó trùng với cái chết của Albrecht Durer, nghệ sĩ Phục Hưng đỉnh cao của Đức, Michelangelo quay trở lại nhà nguyện Sistine trong một môi trường kinh tế xã hội thật khác, để vẽ bức tường phía sau, mô tả cảnh cuộc phán xét cuối cùng trong sách Khải huyền. Bức tường phía sau có diện tích không bằng một phần ba cái trần nhà, chỉ 45 x 40 ft 1800 ft vuông, nhưng Michelangelo đã mất bảy năm để hoàn thành nó trong khi ông vẽ trần nhà chỉ mất bốn năm. Nhìn chung, trừ với một số người không hứng thú với chủ đề của nó, còn lại có thể kết luận bức tường phía sau vẫn là tác phẩm tuyệt đẹp. Tuy nhiên nếu nhìn kỹ hơn, so sánh nó với bức họa vẽ trần mà Michelangelo hoàn thành trước đó, bạn sẽ nhận ra một số khác biệt đáng ngại. Trong cả hai bức tranh từ trần nhà nguyện Sistine, ta đều thấy có nhiều chất tự nhiên và hiện thực hơn. Những thân thể người được vẽ rất đúng tỉ lệ, tỉ lệ riêng của nó và với tương quan các bộ phận khác. Đặt sang một bên chuyện Michelangelo có phong cách miêu tả thân thể con người không thể bắt chước nổi, thì bức tranh vẫn hoàn toàn chân thực. Nhưng giờ hãy nhìn vào thân thể của Chúa trong bức “The Last Judgement”, bạn sẽ thấy một cơ thể toàn cơ bắp là cơ bắp, không có hông hay thắt lung. Thân mình, từ vai xuống đến chân gần như là một khối vuông. Đức Mẹ đồng trinh, người ngồi sau Chúa, đang ở một tư thế chẳng ai có thể giữ lâu, và được mô tả theo cách gợi ý rằng cô ấy đang giữ cố giữ tư thế ấy. Đúng vậy, người ta phải nhìn vào những bức tranh này với ý tưởng về biểu tượng và “một thế giới khác” ở trong đầu. Chúa được coi như một đấng quyền năng dồi dào, oai nghiêm hùng mạnh, trong khi Mary thì đoan trang nghiêm cẩn nhưng không thuộc về thế giới này. Nhưng biểu tượng dường như thu hút quá nhiều sự chú ý và làm mất đi ý nghĩa hàm ẩn của nó, đến mức người xem đều chỉ chú tâm vào sự biến dạng méo mó. Tuy vậy, hãy hiểu rằng, tôi không chỉ trích phê bình nghệ sĩ hay kỹ thuật của ông, mà tôi phê bình triết lý và ý thức hệ đằng sau phong cách kiểu cách này. Thành thật mà nói, có một số bức vẽ theo trường phái kiểu cách, tranh chân dung hay tranh kể chuyện gì đó, trông có vẻ kiểu cách chỉ bởi vì thời đại và vị trí của người nghệ sĩ. Nhưng có nhiều điều hơn có thể dẫn người ta đến kết luận rằng, nếu trường phái kiểu cách là câu trả lời cho câu hỏi chúng ta sẽ đến đâu sau khi đã ở đỉnh cao Phục Hưng, nó hẳn phải là một câu trả lời lầm lạc. Trào lưu kiểu cách từ gốc đến ngọn hầu như gói gọn trong phạm vi nước Ý. Nó không chuyển di theo bất kỳ cách nào qua dãy Alps. Phong cách và thời kỳ này cũng đứng trọn trong thế kỷ 16, bắt đầu từ năm 1520 và kết thúc gọn gang vào năm 1580. Hơn nữa, từ giai đoạn kiểu cách này, nước Ý không còn kiếm thêm được những nghệ sĩ bậc thầy mẫu mực, không còn dẫn đầu nghệ thuật châu Âu nữa, và thay vào đó là Pháp. Và khi giai đoạn Baroque bắt đầu vào năm 1590 cho đến giữa thế kỷ 20, Pháp dẫn dắt hầu hết các mặt nghệ thuật và nước Ý hạ xuống thành một bảo tàng cổ điển. Vài người coi trường phái kiểu cách là cây cầu nối giữa Phục Hưng và Baroque bởi trong suốt thời đó, các góc độ và kỹ thuật khác được sử dụng tốt trong phong cách Baroque thì đến từ trào lưu kiểu cách. Thế nên người ta coi trào lưu này không hẳn là một phong cách, mà giống một trạng thái chuyển giao, một khoảng sáu mươi năm đầy màu sắc, và không tuyệt vời được như giai đoạn trước hoặc sau đó. Để kết lại bài viết này, tôi sẽ trình bày cho bạn vài ví dụ tiêu biểu của trào lưu kiểu cách, và nhấn mạnh những biến dạng của nó, từ đó bạn có thể tự thấy những kỳ quặc của thời đại. Venus và Cupid chiếm lấy tiền cảnh bức tranh. Cupid nấp sau mẹ mình. Hãy nhìn kỹ để thấy lưng và mặt sau của cậu bị uốn cong – không hề thực tế – để đáp lại nụ hôn của mẹ cậu, một nụ hôn bất khả thi từ góc độ này. Ngoài sự biến dạng có thể nhìn thấy, không có cách giải thích dứt khoát nào cho câu chuyện tượng trưng này. Thông điệp đã mất đi theo thời gian, hoặc lẩn khuất trong cách dựng hình riêng biệt của Bronzino. Một lần nữa, phải khẳng định tôi sẽ chẳng nhanh tay treo bức tranh này ở phòng khách nếu nó mô tả ai đó trong gia đình mình. Dù chủ thể có đẹp đẽ tao nhã đến đâu thì vẻ đẹp ấy cũng bị bóp méo với đôi vai khổng lồ và chiếc cổ dài ngoẵng. Theo nhiều cách khác nhau, bức tranh này mô tả đẹp và giàu cảm xúc trong cách sử dụng màu sắc, nhưng hãy nhìn con người lao động nghèo khổ dưới sức nặng của chân Chúa. Thân mình và đôi chân của anh ta được kéo dài đến mức chúng ta không biết biểu hiện của anh ta là đang than khóc cho cái chết của Chúa hay là bởi sức nặng quá mức khiến anh ta phải kéo dài thân mình ra để chịu đựng. Thậm chí màu trên thân mình và cánh tay trên dường như ốm yếu xanh xao đến mức ta không chắc anh ta ở trần hay mặc một chiếc áo chẽn bó chặt. Đó là những biến dạng méo mó mà nghệ sĩ theo trường phái kiểu cách giới thiệu như là biểu tượng, hoặc theo một cách nào đó, như một lời tuyên bố. Nếu coi đó như một phong cách, một thời đại đúng nghĩa, ngang hàng với Baroque và Phục Hưng, thì ta phải thừa nhận rằng nó chẳng phải một thời đại thành công. Nếu ta coi nó như một sự chuyển giao, ta sẽ dễ dàng thông cảm hơn, đó là một giai đoạn 40 đến 50 năm mà người nghệ sĩ mất phương hướng. Thật may mắn làm sao, sau đó cuối cùng họ cũng đã tìm được hướng đi đúng. Bài gốc Tác giả Apple Juice từ Minh Hùng dịch Bài đã đăng trên “Trường phái’’ trong hội họa là thuật ngữ dùng để chỉ một phong cách nghệ thuật thể hiện phương pháp và kỹ thuật riêng của các họa sĩ. Hiện nay, các trường phái mỹ thuật hiện đại rất đa dạng. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ nêu ra những trường phái nghệ thuật tiêu biểu nhất. Tìm hiểu các trường phái hội họa hiện đại tiêu biểu Tính đến thời điểm hiện tại, có vô vàn trường phái mỹ thuật xuất hiện trên toàn thế giới, tại nhiều quốc gia và thời điểm khác khau. Tiêu biểu có thể kể đến các trường phái sau. Trường phái ấn tượng Đây là trào lưu nghệ thuật xuất hiện vào cuối thế kỷ 19 tại Pháp. Đặc trưng của các bức tranh thuộc trường phái này chính là sự thay đổi ánh sáng với những màu sắc được kết hợp hài hòa, ấn tượng. Tác phẩm “Cô gái và chiếc ô” của họa sĩ Claude Monet Một số họa sĩ tiêu biểu của trường phái ấn tượng có thể kể đến như Édouard Manet, Paul Cezanne, Mary Cassatt,... Trường phái dã thú Sự xuất hiện của trường phái dã thú đã khắc phục được nhược điểm của trường phái ấn tượng. Đó là, tập trung chủ yếu vào ánh sáng và không làm nổi bật được đường nét cảnh vật, đối tượng trong bức tranh. Tranh trường phái dã thú với sự “nổi loạn” về màu sắc Dã thú là một trong các trường phái mỹ thuật hiện đại, thể hiện cá tính mạnh mẽ với những đường nét đậm màu, dứt khoát để mô tả các đối tượng trong bức tranh. Có thể nói, tranh trường phái nghệ thuật dã thú mang phong cách “nổi loạn’’ về màu sắc theo quy luật có dự tính trước. Một số họa sĩ tranh trường phái dã thú tiêu biểu có thể kể đến như Henri Matisse, Vlaminck, Andre Derain,... Trường phái biểu hiện Đây là một trong các trường phái mỹ thuật hiện đại đặc biệt. Bởi, không chỉ được biểu hiện trong hội họa, trường phái này còn xuất hiện trong văn học, điện ảnh,... Trường phái biểu hiện xuất hiện vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 và phát triển chủ yếu ở các quốc gia châu Âu. Đặc điểm của trường phái này là tập trung phơi bày sự khốn khổ về cả thể xác lẫn tinh thần của con người trong xã hội một cách thuần túy nhất. Bức tranh “Blue Horse” của họa sĩ Franz Marc Song song đó, bạn cũng có thể nhận biết tranh thuộc trường phái biểu hiện với những vệt màu dày cùng 2 màu sắc nổi bật là đen và đỏ. Một số họa sĩ tiêu biểu của trường phái biểu hiện là Franz Marc, Edvard Munch, Emil Nolde,... Trường phái lập thể Chủ nghĩa lập thể trong hội họa mang đến cái nhìn đa chiều hơn Nhắc đến các trường phái mỹ thuật hiện đại, chắc hẳn lập thể là một cái tên không thể thiếu. Đây được xem là trường phái hội họa tạo ra cuộc cách mạng lớn vào đầu thế kỷ 20 tại nhiều quốc gia châu Âu. Điểm đặc biệt của các bức tranh thuộc trường phái nghệ thuật này chính là cách thể hiện không theo quy luật nhất định. Tại một thời điểm, cùng một đối tượng nhưng sẽ có nhiều cách thể hiện khác nhau tạo nên sự phong phú, đa dạng. Đối tượng trong tranh lập thể khá trừu tượng, được tạo nên từ nhiều mảng nhỏ, sắp xếp chồng chéo lên nhau một cách ngẫu nhiên. Các họa sĩ tiêu biểu của trường phái lập thể như Pablo Picasso, Georges Braque,... Trường phái siêu thực Đây là một trong các trường phái mỹ thuật hiện đại rất được quan tâm vào đầu thế kỷ 20 bởi tính bí ẩn và độc đáo. Trường phái tranh nghệ thuật này ra đời với tư tưởng chống lại chủ nghĩa Dada, vốn là một trào lưu sáng tạo phản nghệ thuật lúc bấy giờ. Tác phẩm tranh trường phái siêu thực - The Accommodations of desire của họa sĩ Salvador Dali 1929 Các tác phẩm hội họa thuộc trường phái siêu thực thường mang tính biểu tượng, trực quan và thể hiện sự bất mãn đối với chủ nghĩa Dada. Một số họa sĩ nổi tiếng với trường phái tranh siêu thực có thể kể đến như Salvador Dalí, Yves Tanguy, Joan Miró,... Trường phái tương lai Không giống như các trường phái mỹ thuật hiện đại khác, trường phái tương lai đi sâu vào lột tả những mâu thuẫn, sự bất mãn với xã hội đương thời. Các bức tranh thuộc trường phái này được sắp xếp theo bố cục không rõ ràng, chồng chéo lên nhau với màu sắc, độ sáng phức tạp. Tranh trường phái tương lai là sự kết hợp độc đáo của các hình khối chồng chéo Trường phái trừu tượng Xuất hiện vào đầu thế kỷ 20, trường phái trừu tượng là loại hình nghệ thuật phi vật thể độc đáo, dẫn đầu xu hướng hội họa hiện đại thời bấy giờ. Với tranh trường phái trừu tượng, các hình khối, đường nét, màu sắc được kết hợp hài hòa, tự do theo cảm nhận và tư duy riêng của người vẽ. Tranh trừu tượng “Xuân và rừng” của họa sĩ Nguyễn Quang Tuấn Một số họa sĩ tiêu biểu đại diện cho trường phái tranh trừu tượng như Robert Delaunay, Sonia Delaunay, Wassily Kandinsky,... Trường phái nghệ thuật nhận thức Bức tranh “Spatial Concept ' Waiting'' - Lucio Fontana Nghệ thuật nhận thức là trường phái cuối cùng kết thúc kỷ nguyên của các trường phái mỹ thuật hiện đại. Bản chất nghệ thuật của các bức tranh thuộc trường phái này chính là chú trọng đến tiến trình, tạo ra một cấu trúc nghệ thuật với tạo hình hoàn toàn mới, lấy không gian và thị giác làm giá trị cốt lõi. >>> Xem thêm 10 mẫu tranh sơn dầu sơn thủy hữu tình Tuy có nhiều điểm khác biệt về màu sắc, cách sắp xếp bố cục, đối tượng,... nhưng các trường phái nghệ thuật hiện đại tiêu biểu mà chúng tôi đã tổng hợp ở trên đều đóng góp một phần không nhỏ và tạo nên sự phát triển bền vững cho nền hội họa thế giới. Trường phái kiểu cách là một trào lưu nghệ thuật xuất phát ở Ý khoảng từ 1520 tới 1580, tiếp sau thời kỳ Phục Hưng. Các nghệ sĩ trường phái kiểu cách chủ trương đề cao kỹ thuật, cần sảnh sỏi, cố dụng tâm làm sao cho thanh cao. Họ tôn thờ cái đẹp ưu khoái lạc đến mức kỳ dị, ngôn ngữ bất thường. Nghệ thuật kiểu cách bị xem như sa sút, kém hài hòa và duyên dáng so với thế hệ trước đó.[1] Parmigianino, Madonna with the Long Neck 1534-40 Ban đầu, nghệ thuật kiểu cách cũng có sức hút nhất định, song càng về sau, trường phái này càng sa sút và đi tới thoái trào. Hội họa phương Tây sau đó bước đến thời kỳ Baroque.[1] Mỹ thuật thời Trung cổ 500–1400 Tranh Than khóc Đức Kitô Lamentation of Christ, Giotto, 1305 Đặc trưng Hình ảnh tối tăm ảm đạm, chủ đề Kinh Thánh, thần thoại cổ điển, kiến trúc Gothic Nhân vật tiêu biểu Giotto, Cimabue, Abbot Suger Tác phẩm có ảnh hưởng Cimabue, Crucifix, 1288 Giotto, Than khóc Đức Kitô Lamentation of Christ, 1305 Thời kỳ Trung cổ, hay thường được nhắc đến như là “Thời kỳ đen tối” hoặc “Đêm trường Trung cổ, đánh dấu thời kỳ suy thoái kinh tế và thoái trào văn hóa sau sự kiện Đế chế La Mã sụp đổ năm 476. Thông qua những hình ảnh kỳ quái và khung cảnh ghê sợ, nhiều tác phẩm nghệ thuật ra đời trong những năm đầu của thời kỳ này đã phản ánh thực tại tối tăm đó. Nghệ thuật thời kỳ này tập trung vào Giáo hội Công giáo. Khi thiên niên kỷ thứ nhất qua đi, xuất hiện ngày càng nhiều nhà thờ trang trí rất tinh tế và tỉ mỉ, với những khung cửa sổ và tiễn ảnh silhouettes được tô điểm bằng theo nhiều chủ đề trong kinh thánh và những cảnh vật xuất hiện trong thần thoại. Thời kỳ này cũng ghi dấu sự phát triển của bản thảo thếp vàng illumiated manuscript và phong cách kiến trúc Gothic. Nhiều công trình nghệ thuật và kiến trúc chịu ảnh hưởng từ thời kỳ này như các hầm mộ ở Rome, Hagia Sophia ở Istanbul Thổ Nhĩ Kỳ, Sách Phúc Âm Lindisfarne – một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của thể loại bản thảo thếp vàng, cũng như nhà thờ chính tòa Notre Dame ở Paris Pháp – công trình tiêu biểu của phong cách kiến trúc Gothic. Mỹ thuật thời Phục Hưng/Renaissance 1400–1600 Tranh Trường học Athens The School of Athens, Raffaello Sanzio da Urbin Đặc trưng Nhân tố tự nhiên, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa hiện thực, tập trung vào chi tiết, giải phẫu học chính xác. Nhân vật tiêu biểu Leonardo da Vinci, Michelangelo, Raphael Tác phẩm có ảnh hưởng Leonardo da Vinci, Mona Lisa, 1503 Michelangelo, David, 1504 Raphael, Trường học Athens The School of Athens, 1511 Nét tiêu biểu của phong cách hội họa, điêu khắc và mỹ thuật trang trí thời Phục Hưng là sự tập trung vào thiên nhiên và chủ nghĩa cá nhân individualism, ý nghĩ cho rằng con người là thực thể độc lập và biết tự dựa vào sức mình. Tuy những lý tưởng này đã định hình từ thời hậu kỳ Trung cổ, nhưng chúng vẫn phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ 15 và thế kỷ 16, đi cùng với nhiều thay đổi về kinh tế – xã hội, chẳng hạn như “sự phi tôn giáo hóa” thế tục hóa. Thời Phục Hưng đạt tới điểm cực thịnh ở Florence, Italy. Sự phát triển này một phần quan trọng là nhờ gia tộc Medici, một dòng họ thương gia giàu có, hết lòng bảo trợ nghệ thuật và chủ nghĩa nhân đạo humanism – tức hệ thống niềm tin và triết lý lấy con người là trọng tâm. Nhà thiết kế Filippo Brunelleschi và nhà điêu khắc Donatello là hai nhân vật giữ vai trò chủ đạo trong thời kỳ này. Thời kỳ Phục Hưng đỉnh cao High Renaissance, kéo dài từ năm 1490 đến năm 1527, sản sinh ra hàng loạt họa sĩ có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ như da Vinci, Michelangelo và Raphael. Mỗi người trong số họ đều tiếp thêm sức sáng tạo và lý tưởng đột phá cho kỹ thuật diễn tả tâm lý con người. Tác phẩm nghệ thuật thời Phục Hưng mang đặc trưng của chủ nghĩa hiện thực realism, chú ý sâu sắc tới chi tiết và nghiên cứu giải phẫu học rất chính xác. Họa sĩ sử dụng luật phối cảnh và tạo dựng chiều sâu cho tranh thông qua tương quan giữa ánh sáng và bóng tối. Ngay sau khi thời kỳ Phục Hưng đỉnh cao kết thúc, mỹ thuật bắt đầu thay đổi theo hướng phân chia phong cách, khi đó xung đột giữa đức tin Kitô giáo xung và chủ nghĩa nhân đạo mở đường cho Trường phái kiểu cách phát triển. Trường phái kiểu cách – Mannerism 1527–1580 Bronzino, Vệ nữ, Cupid, sự điên rồ và thời gian Venus, Cupid, Folly and Time, 1540 Đặc trưng Đặc điểm mang tính cách điệu, những chi tiết được phóng đại, các yếu tố trang trí. Nhân vật tiêu biểu Giorgio Vasari, Francesco Salviati, Bronzino Tác phẩm có ảnh hưởng Bronzino, Vệ nữ, Cupid, sự điên rồ và thời gian Venus, Cupid, Folly and Time, 1540 Giorgio Vasari, Phúng dụ về quan niệm trong trắng Allegory of the Immaculate Conception, 1541. Họa sĩ theo trường phái kiểu cách xuất hiện trên nền tảng những lý tưởng của Michelangelo, Raphel và các hoạt sĩ cuối thời Phục Hưng khác, nhưng họ lại quan tâm đến phong cách và kỹ thuật hơn là ý nghĩa mà đề tài thể hiện. Thường thì các nhân vật có chân tay dài, thon thả, đầu nhỏ, các đặc trưng mang tính cách điệu và các chi tiết được phóng đại. Cách thể hiện này tạo nên bố cục phức tạp hơn, mang tính cách điệu hơn, chứ không phụ thuộc vào những lý tưởng kinh điển về bố cục hài hòa và phối cảnh, mà các bậc tiền bối của họ đã sử dụng ở thời Phục Hưng. Trong số những họa sĩ theo trường phái kiểu cách nổi tiếng nhất có Giorgio Vasari, Francesco Salviati, Domenico Beccafumi và Bronzino, người thường được coi là họa sĩ theo trường phái kiểu cách quan trọng nhất tại Florence trong thời đại của ông. Thời kỳ Baroque 1600–1750 Rembrandt, Gác đêm The Night Watch Đặc trưng Trang trí công phu, vẻ tráng lệ, phong phú, phức tạp về phong cách, tính chất kịch nghệ. Nhân vật tiêu biểu Caravaggio, Rembrandt van Rijn, Johannes Vermeer Tác phẩm có ảnh hưởng Caravaggio, Tiếng gọi của Thánh Matthew The Calling of St Matthew, 1600 Rembrandt, Gác đêm The Night Watch, 1642 Johannes Vermeer, Cô gái đeo khuyên tai ngọc trai Girl with a Pearl Earring, 1665 Thời Baroque Ba-rốc kế thừa phong cách trang trí công phu, kiến trúc và nghệ thuật trực quan thái quá của trường phái kiểu cách. Thời này nổi bật với vẻ tráng lệ và phong phú, thể hiện qua mối quan tâm tới việc mở rộng trí tuệ nhân loại và khám phá trên toàn cầu. Các họa sĩ thời Baroque vô cùng phức tạp về mặt phong cách. Tranh thời Baroque mang tính “chính kịch”, như ta có thể thấy trong các tác phẩm mang tính tượng trưng của họa sĩ người Italia Caravaggio và họa sĩ Hà Lan Rembrandt. Các họa sĩ sử dụng sự tương phản sáng tối và xây dựng bố cục tranh cực kỳ sinh động nhờ bảng màu phong phú. Thời Rococo 1699–1780 Jean-Antoine Watteau, Khởi hành tới Cythera The Embarkation for Cythera, khoảng năm 1718-1719 Đặc trưng Tươi sáng, thanh nhã, dạng hình tự nhiên, thiết kế bất đối xứng, màu sắc tinh tế Đại diện hàng đầu Antoine Watteau, Francois Boucher Tác phẩm có ảnh hưởng Antoine Watteau, Khởi hành tới Cythera The Embarkation for Cythera, 1718 Francois Boucher, Thần Vệ Nữ trêu đùa tình yêu Venus Consoling Love, 1751 Rococo khởi phát ở Paris và bao hàm nhiều thể loại, từ mỹ thuật trang trí, hội họa, kiến trúc cho đến điêu khắc. Thời này mang đến phong cách mỹ thuật trang trí phần nào nhẹ hàng hơn thời Baroque hoa mỹ. Đặc trưng của Rococo được thể hiện qua ánh sáng và vể thanh nhã, tập trung vào việc sử dụng những dạng hình tự nhiên, thiết kế bất đối xưng và màu sắc huyền ảo. Các họa sĩ như Antoine Watteau và Francois Boucher sử dụng phương pháp xử lý vui tươi, phong cách vẽ phong phú và màu sắc tươi tắn. Phong cách Rococo cũng dễ dàng lấn sang cả ngành chế tác đồ bạc, nặn đồ gốm sứ và thiết kế đồ nội thất Pháp. Nhiều loại ghế và tủ mang những đường nét cong đặc trưng, thiết kế hoa lá và thếp vàng tốn kém. Tân cổ điển – Neoclassicism 1750–1850 Jacques-Louis David, Napoleon vượt dãy Alps Napoleon Crossing the Alps, 1801-1805 Qua tên gọi ta có thể thấy thời kỳ Tân cổ điển quy tụ những yếu tố ra đời từ thời xa xưa. Việc phát hiện ra tàn tích của những nền văn minh xưa cũ ở Athens và Naples đã tái kích thích niềm say xưa tìm về những giá trị của quá khứ. Giới họa sĩ gắng hết sức tái tạo lại những kiệt tác ra đời từ thời xưa, qua đó dấy lên niềm quan tâm mới tới những lý tưởng cổ điển về sự hài hòa, mộc mạc và cân xứng. Họa sĩ tân cổ điển chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố cổ điển, trong đó có việc đặt trọng tâm vào chủ nghĩa lý tưởng idealism. Họ cũng không tránh khỏi đưa cả những bối cảnh liên quan đến lịch sử hiện đại vào trong tác phẩm. Chẳng hạn, nhà điêu khắc người Italia Antonio Canova tận dụng các yếu tố cổ điển trong các tác phẩm điêu khắc bằng đá cẩm thành của mình, nhưng vẫn tránh được cái vẻ nhân tạo lạnh lẽo thường gặp ở nhiều tác phẩm thời trước. Chủ nghĩa Lãng mạn – Romanticism 1780–1850 Chủ nghĩa lãng mạn lan tỏa trên một phạm vi lĩnh vực rất rộng, từ hội họa, âm nhạc cho tới văn học. Những lý tưởng được thể hiện trong mỗi loại hình nghệ thuật này chối bỏ trật tự, sự hài hòa và tính hợp lý, vốn rất quan trọng trong cả nghệ thuật cổ điển và tân cổ điển. Thay vào đó, nghệ sĩ theo chủ nghĩa lãng mạn nhấn mạnh đến tính cá nhân và trí tưởng tượng. Một nhân tố khác góp phần định hình lý tưởng của chủ nghĩa lãng mạn là sự coi trọng thiên nhiên, thể hiện ở việc nhiều người tìm đến hội họa ngoài trời plein air, họa sĩ ra khỏi những căn phòng tối tăm và sáng tác ở bên ngoài. Các họa sĩ cũng tập trung vào niềm đam mê, tình cảm và cảm thức về trí tuệ và lý trí. Những họa sĩ nổi bật nhất của chủ nghĩa lãng mạn có thể kể đến Henry Fuseli – người sáng tác nhiều họa phẩm kỳ quái và đáng sợ nhằm tìm hiểu sâu những ngóc ngách tối tăm trong tâm lý con người, và William Blake – người cho ra đời nhiều bài thơ và tranh vẽ bí ẩn, phản ánh cái nhìn huyền bí và sự thất vọng vì sự bí bách của xã hội. Chủ nghĩa Hiện thực – Realism 1848–1900 Ra đời ở Pháp trong thập niên 1840, chủ nghĩa hiện thực có thể được coi là trường phái nghệ thuật hiện đại đầu tiên. Chủ nghĩa hiện thực là kết quả của nhiều sự kiện Phong trào chống lại chủ nghĩa lãng mạn ở Đức, sự nổi lên của giới báo chí và khởi nguyên của thời đại nhiếp ảnh. Mỗi sự kiện đều khơi dậy nguồn cảm hứng cho việc lưu giữ chính xác hình ảnh của cuộc sống thường ngày. Mối quan tâm đến tính chính xác được thể hiện rất rõ ràng trong các tác phẩm nghệ thuật thuộc trường phái này, ở đó việc mô tả chân thực và chi tiết đối tượng là một đặc trưng nổi bật. Một trong những người dẫn đầu có sức ảnh hưởng nhất của trường phái nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa là Gustave Courbet, một họa sĩ Pháp dốc tâm sức vẽ tranh theo đúng những gì ông nhìn thấy ngoài đời. Tân nghệ thuật – Art Nouveau 1890–1910 Art Nouveau, dịch ra là “Nghệ thuật mới” Tân nghệ thuật, cố gắng tạo ra một trường phái nghệ thuật hoàn toàn nguyên bản, thoát ly khỏi bất kỳ hình thức bắt chước phong cách nào ra đời trước đây. Trường phái này ảnh hưởng rất lớn tới ngành nghệ thuật ứng dụng, đồ họa và vẽ hình minh họa. Tân nghệ thuật tập trung vào thế giới tự nhiên, thể hiện qua những đường thẳng và đường cong dài lượn sóng. Các họa sĩ tân nghệ thuật tên tuổi sáng tác trên nhiều phương diện khác nhau, bao gồm kiến trúc, thiết kế nội thất, đồ họa, chế tác đồ trang sức và tất nhiên cả hội họa. Nhà thiết kế đồ họa Alphonse Mucha lừng danh vì những tấm bích chương màu mè vẽ nữ diễn viên người Pháp Sarah Bernhardt. Kiến trúc sư, điêu khắc gia người Tây Ban Nha Antoni Gaudi tiến xa hơn nữa bằng việc tập trung thể hiện các đường nét, nhằm tạo ra những cấu kiện kiến trúc uốn cong, sáng màu giống như ở nhà thờ Basilica de la Sagrada Familia ở Barcelona. Trường phái Ấn tượng – Impressionism 1865–1885 Họa sĩ theo chủ nghĩa ấn tượng tìm cách bắt trọn được ấn tượng tức thì, xuất hiện tại một thời điểm nào đó. Mục đích này được thể hiện thông qua những nét cọ đi nhanh và ngắn gọn, tạo cảm giác tác phẩm giống như một bức tranh phác thảo chưa hoàn thiện. Họa sĩ theo chủ nghĩa ấn tượng chọn đề tài từ trong cuộc sống hiện đại, họ vẽ cảnh nhà khiêu vũ hay một cuộc đua thuyền buồm chứ không chọn những sự kiện mang tính lịch sử và huyền thoại. Tên tuổi Claude Monet, họa sĩ Pháp tiên phong trong ý tưởng diễn tả sự nhận thức của con người khi đứng trước thiên nhiên, hầu như đồng nghĩa với chủ nghĩa hiện thực. Trong số các họa phẩm danh tiếng của ông có Ao súng – The Water Lily Pond 1899, Người phụ nữ cầm chiếc ô – Woman with a Parasol 1875 và Ấn tượng, mặt trời mọc – Impression, Sunrise 1872 – bức tranh được dùng để đặt tên cho chính trường phái nghệ thuật này. Trường phái Hậu ấn tượng – Post-Impressionism 1885–1910 Họa sĩ theo trường phái hậu ấn tượng làm việc độc lập chứ không quy tụ thành nhóm, nhưng các họa sĩ tên tuổi của trường phái này đều có những lý tưởng tương đồng. Họ tập trung vào những cách nhìn nhận chủ quan và ý nghĩa biểu tượng mang tính cá nhân, hơn là quan sát thế giới bên ngoài theo cách chân thực. Họ thường đạt được lý tưởng này thông qua hình thức trừu tượng. Các họa sĩ hậu ấn tượng gồm có Georges Seurat, nổi tiếng vì kỹ thuật “điểm họa” pointillism, sử dụng những chấm nhỏ, tách biệt để định hình bức tranh. Vincent van Gogh cũng là một họa sĩ hậu ấn tượng, ông tìm cách bộc lộ cá tính thông qua tranh mình vẽ, thường thể hiện qua những nét cọ thô và tông màu tối. Trường phái Dã thú – Fauvism 1900–1935 Dưới sự dẫn dắt của Henri Matisse, trường phái Dã thú phát triển trên nền tảng nghệ thuật của Vincent van Gogh và George Seurat. Như là những nhà tiên phong avant -garde đầu tiên, hay cũng là trường phái đầu tiên của thế kỷ 20, phong cách nghệ thuật này nổi bật qua việc sử dụng màu sắc, đường nét và nét cọ rất mạnh mẽ, cảm giác về bề mặt rất rõ nét và bố cục tranh phẳng. Có thể thấy trong nhiều tác phẩm của chính Matisse, sự tách biệt màu sắc ra khỏi mục đích mô tả và biểu trưng của nó là một trong những thành tố cốt lõi định hình nên trường phái này. Dã thú là trường phái nghệ thuật báo hiệu sự ra đời của trường phái lập thể và trường phái biểu hiện sau này. Trường phái biểu hiện – Expressionism 1905–1920 Sự ra đời của trường phái Biểu hiện như là phản ứng trước sự xung đột ngày càng mãnh liệt giữa những cách nhìn nhận thế giới khác nhau, và sự suy thoái của giá trị tinh thần. Nghệ thuật biểu hiện cố gắng biểu đạt những điều xuất hiện trong chính bản thân họa sĩ, sử dụng hình dạng méo mó, màu sắc mạnh mẽ để diễn tả sự lo lắng và những cảm xúc tự nhiên. Họa sĩ theo trường phái biểu hiện lên đường kiếm tìm giá trị chân thực. Họ tìm những nguồn cảm hứng mới, không có trong nghệ thuật phương Tây và những bảo tàng dân tộc thường hay lai vãng, mà trong những truyền thống dân gian và nghệ thuật của các bộ tộc nằm ngoài châu Âu tribal art. Gốc gác của trường phái Biểu hiện liên quan tới họa sĩ Vincent van Gogh, Edvard Munch và James Ensor. Các nhóm họa sĩ tiêu biểu như Die Brücke Nhóm cây cầu – The Bridge và Der Blaue Reiter Nhóm Kỵ sĩ xanh – The Blue Rider ra đời, giúp họa sĩ có nơi trưng bày tác phẩm và nêu lên tiếng nói chung. Trường phái Lập thể – Cubism 1907–1914 Trường phái Lập thể là con đẻ của họa sĩ Pablo Picasso và Georges Braque, những người chối bỏ quan điểm nghệ thuật nên sao chép tự nhiên. Họ tránh xa những kỹ thuật quy luật phối cảnh truyền thống, thay vào đó, họ tạo ra những đối tượng được hình khối hóa hoàn toàn trừu tượng. Nhiều tác phẩm của giới họa sĩ theo trường phái Lập thể nổi bật bởi bề mặt hai chiều phẳng lì, các dạng hình học hay “dạng khối” của vật thể, cùng nhiều điểm nhìn khác nhau. Thông thường không dễ nhận ra rõ đề tài của tác phẩm. Trường phái Siêu thực – Surrealism 1916–1950 Trường phái Siêu thực phát sinh từ trào lưu nghệ thuật Dada năm 1916, trưng bày các tác phẩm nghệ thuật chối bỏ lý trí. Các họa sĩ theo trường phái Siêu thực lên án đầu óc duy lý. Họ phê phán cách lối suy nghĩ về các sự kiện như Thế chiến I và tin rằng lối suy nghĩ này sẽ kìm hãm trí trí tưởng tượng. Giới họa sĩ theo trường phái này chịu ảnh hưởng của Karl Marx và lý thuyết được phát triển bởi Sigmund Freud – nhà khoa học nghiên cứu lĩnh vực phân tâm học và sức mạnh của trí tưởng tượng. Các họa sĩ Siêu thực nổi tiếng như Salvador Dalir tận dụng tư duy vô thức để khắc họa những điều huyền bí ẩn hiện trên đường phố và trong cuộc sống thường ngày. Cụ thể, tranh của Dali kết hợp giữa những giấc mơ kỳ quái nhưng sống động với sự chính xác vê mặt lịch sử. Trường phái Biểu hiện trừu tượng – Abstract Expressionism thập niên 1940– thập niên 1950 Trường phái Biểu hiện trừu tượng xuất hiện ở New York sau thế chiến II, kế thừa những di sản mà trường phái Siêu thực để lại. Trường phái này cũng thường được gọi là trường phái New York hoặc hội họa hành động action painting. Họa sĩ và điêu khắc gia theo trường phái này phá vỡ những quy ước truyền thống, sử dụng tài ứng biến và tính tự phát để sáng tạo nên những tác phẩm mỹ thuật trừu tượng. Nhiều tác phẩm lớn đến nỗi không thể treo trên khung đỡ được mà phải đặt trực tiếp lên sàn nhà. Danh họa trường phái Biểu hiện trừu tượng gồm có Jackson Pollock, nổi tiếng với phong cách vẽ vảy màu độc nhất vô nhị, và Mark Rothko với cách sử dụng những khối màu lớn để truyền đạt cảm thức về tinh thần. Mỹ thuật Quang học – Op Art thập niên 1950 – thập niên 1960 Được trợ lực bởi những tiến bộ trong lĩnh vực khoa học công nghệ cũng như mối quan tâm dành cho hiệu ứng quang học và ảo giác, trào lưu mỹ thuật Quang học – Op art “Op” là viết tắt của “Optical” – Quang học ra đời cùng với Le Mouvement, một triển lãm nhóm tổ chức ở Galerie Denise Rene vào năm 1955. Họa sĩ theo trào lưu này sử dụng các hình dạng, màu sắc và hoa văn để tạo ra những hình ảnh dường như đang chuyển động hoặc mờ dần, thông thường họ dùng màu đen trắng nhằm tạo ra độ tương phản tối đa. Hình ảnh trừu tượng dạng này vừa kích thích, vừa khiến mắt cảm thấy bối rối. Họa sĩ người Anh Bridget Riley là một trong những nhân vật đại diện tiêu biểu nhất của mỹ thuật Quang học. Tác phẩm Blaze bà vẽ năm 1964 sử dụng những đường dích dắc đen trắng để tạo ra ảo giác hình vòng tròn. Nghệ thuật Đại chúng – Pop Art thập niên 1950 – thập niên 1960 Nghệ thuật Đại chúng Pop art, “Pop” là viết tắt của “Popular” – mang tính đại chúng là một trong những bước phát triển nghệ thuật nổi bật nhất nhất thế kỷ 20. Trào lưu này rời xa các phương pháp ứng dụng trong trường phái Biểu hiện trừu tượng, mà thay vào đó, sử dụng đối tượng tồn tại trong thực tế của cuộc sống thường nhật để tạo ra các tác phẩm nghệ thuật mới mẻ, tạo nên thách thức cho cả người tiêu dùng và truyền thông đại chúng. Việc giới thiệu những hình ảnh dễ nhận biết như vậy là một bước chuyển dịch từ định hướng của chủ nghĩa hiện đại. Các họa sĩ theo phái nghệ thuật đại chúng như Andy Warhol và Roy Lichtenstein, bỏ công xây dựng nên quan điểm rằng nghệ thuật có thể thu hút được bất kỳ nguồn lực nào và không hệ thống cấp bậc về văn hóa nào có thể phá vỡ điều đó. Có lẽ tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng nhất của nghệ thuật đại chúng là Lon súp của Campbell – Campbell’s Soup Cansdo do Andy Warhol sáng tác. Arte Povera thập niên 1960 Arte Povera, dịch theo nghĩa đen là “nghệ thuật nghèo nàn”, thách thức các hệ thống hiện đại chủ nghĩa đương thời bằng việc đưa những vật liệu tầm thường vào tạo tác. Nghệ sĩ sử dụng đất, đá, giấy, dây thừng và những vật liệu bằng đất khác nhằm gợi lên cảm giác thời tiền công nghiệp. Vì lý do này, nhiều tác phẩm danh tiếng của trào lưu Arte Povera thuộc thể loại điêu khắc. Nghệ sĩ Italia Mario Merz, cùng với nhiều nghệ sĩ người Italia khác như Giovanni Anselmo và Alighiero Boetti, sáng tạo ra các tác phẩm chống lại chủ nghĩa tinh anh anti-elitism, thông qua việc sử dụng vật liệu khai thác từ cuộc sống thường nhật. Tác phẩm Lều của tướng Giáp – Giap’s Igloo được ông sáng tác năm 1968, sớm trở thành một trong những tác phẩm ông tự hào nhất. Tác phẩm này thể hiện quan điểm của ông về một nơi cư trú, với những điều cần thiết nhất trong cuộc sống nơi trú trụ, sự ấm áp và thực phẩm. Chủ nghĩa Tối giản – Minimalism 1960s–1970s Một trong số Những bức vẽ đen của Frank Stella. Trào lưu Tối giản chủ nghĩa ra đời ở New York khi một nhóm họa sĩ trẻ bắt đầu xem xét các tác phẩm bộc lộ thái quá của giới họa sĩ Biểu hiện trừu tượng. Nghệ thuật Tối giản, thay vào đó, tập trung vào tính “ẩn danh”, kêu gọi sự chú ý tới tính vật chất của tác phẩm. Qua việc sử dụng những hình dạng thuần nhất, trật tự sắp đặt, tính đơn giản và yếu tố hài hòa, họa sĩ thúc giục khán giả tập trung đích xác vào thứ đang hiện hữu trước mắt họ, chứ trong lúc đó đừng để ý thực tại bên ngoài và ý nghĩ cảm xúc nữa. Họa sĩ người Mỹ Frank Stella là một trong những người đầu tiên đi theo chủ nghĩa Tối giản, ông sáng tác nhiều bức họa phi biểu tả non-representational, như ta thấy trong loạt tác phẩm Những bức vẽ đen – Black Paintings mà ông hoàn thành trong giai đoạn 1958-1960. Mỗi bức tranh đều chứa mẫu hoa văn dạng đường kẻ sọc, độ rộng đồng nhất, và được in bằng mực có màu đen kim loại. Nghệ thuật Khái niệm – Conceptual Art thập niên 1960s– thập niên 1970 Tác phẩm Một và Ba chiếc ghế của Joseph Kosuth, năm 1965. Nghệ thuật Khái niệm hoàn toàn chối bỏ những trào lưu nghệ thuật diễn ra trước đó, các nghệ sĩ thuộc trào lưu này đánh giá ý tưởng cao hơn tất thảy các thành phần trực quan khác, họ sáng tạo nghệ thuật dưới hình thức biểu diễn, tác phẩm mang tính tạm thời và các dạng thức khác. Tác phẩm Thơ ca tích cực – Active Poetry của nghệ sĩ biểu diễn người Ba Lan Ewa Partum, bao gồm các chữ cái đặt phân tán trên nhiều quang cảnh khác nhau. Nghệ sĩ người Mỹ Joseph Kosuth khám phá ra vai trò cũng như cách sử dụng của ngôn ngữ trong nghệ thuật, như có thể thấy trong tác phẩm Một và Ba chiếc ghế – One and Three Chair ra đời năm 1965. Ở tác phẩm này, ông thể hiện chiếc ghế theo ba cách khác biệt nhằm diễn tả các ý nghĩa khác nhau của cùng một đối tượng. Vì loại hình nghệ thuật này tập trung vào ý tưởng và khái niệm, nên không tồn tại phong cách hay dạng thức dễ nhận. Nghệ thuật Đương đại – Contemporary Art 1970–present Thập niên 1970 đánh dấu khởi đầu của nền nghệ thuật đương đại, và vẫn còn tiếp diễn cho đến ngày nay. Thời kỳ này chứng kiến sức ảnh hưởng của nhiều trường phái nghệ thuật khác nhau cũng như sự xuất hiện của nhiều trào lưu nhỏ. Chủ nghĩa Hậu hiện đại Postmodernism Nhằm phản ứng lại chủ nghĩa hiện đại, nhiều họa sĩ sáng tác tác phẩm để qua đó phản ánh chủ nghĩa hoài nghi, châm biếm và phê bình triết học. Nghệ thuật phong trào nữ quyền Feminist art Trào lưu nghệ thuật này trỗi dậy với sứ mệnh thay đổi những định kiến và phá vỡ hiện trạng nền nghệ thuật do nam giới thống trị. Trường phái Tân biểu hiện Neo Expressionism Họa sĩ tìm cách hồi sinh những khía cạnh nguyên bản của Trường phái Biểu hiện, và sáng tạo ra những tác phẩm lớn, có giá trị biểu đạt và tạo cảm giác bề mặt. Nghệ thuật đường phố Street art Các nghệ sĩ như Keith Haring, Jean-Michel Basquiat, Barry McGee, Banksy và nhiều người khác nữa, sáng tác nghệ thuật tương tự graffiti trên những mặt phẳng ở nơi công cộng như vỉa hè, tòa nhà và cầu chui. Thế hệ tranh ảnh The Pictures Generation Chịu ảnh hưởng những hình ảnh dễ nhận biết của nghệ thuật Đại chúng và nghệ thuật Khái niệm, Artists Cindy Sherman, Louise Lawler, Gary Simmons và nhiều nghệ sĩ khác, say mê khám phá những hình ảnh đã định hình nên cách chúng ta nhìn nhận thế giới. Nghệ thuật chuyển dụng Appropriation art Trào lưu này tập trung vào việc sử dụng hình ảnh ít bị biến đổi so với nguyên bản. Các nghệ sĩ trẻ người Anh Young British Artists – YBA Nhóm nghệ sĩ London này nổi danh vì họ sẵn sàng khiến khán giả phát sốc qua những hình ảnh họ sáng tạo, và vì họ cũng không ngại vượt ra ngoài khuôn khổ của phép lịch sử. Họ cũng được biết tới vì niềm đam mê và tinh thần bất chấp entrepreneurial ?. Nghệ thuật điện tử Digital art Sự xuất hiện của máy ảnh đã mở đường cho hình thức thể hiện nghệ thuật này phát triển, qua đó cho phép nghệ sĩ kết hợp cả nghệ thuật và công nghệ để sáng tạo qua những phương tiện như máy tính, phần mềm hình ảnh và âm thanh, tiếng động và điểm ảnh pixel. Dịch từ

trường phái kiểu cách