Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu. Nguyễn Đình Chiểu sinh năm 1822 mất năm 1888, tên tự của ông là Mạnh Trạch, hiệu là Trọng Phủ. Ông sinh ra tại quê mẹ thuộc làng Tân Thới, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định. Quê cha của ông là ở Thừa Thiên Huế. Đến năm 1833
Giới thiệu: Trường Tiểu học Nguyễn Đình Chiểu Bình Thạnh 1 Lê Quang Định, Phường 14, Bình Thạnh là địa chỉ được rất nhiều người tìm hiểu về một số thông tin như: ở đâu, địa điểm, số điện thoại, các đánh giá reviews có tốt không tại Trường Tiểu học
Ngoài ra, gia đình cũng mất trắng 5.000 cây cúc nghệ cho rằm tháng 11 sau bao đêm phải chong điện kích thích tăng trưởng. Nguy cơ mất trắng sau lũ. Theo thống kê ban đầu của Ban Chỉ huy PCTT và TKCN TP Huế, địa phương có hơn 82ha rau màu các loại bị thiệt hại.
Địa chỉ: 9 Nguyễn Đình Chiểu, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Văn phòng phía Nam: 43 Đồng Khởi, quận 1, TP. Hồ Chí Minh. Điện thoại: (84-43) 9448134 - (84-43) 9449748. Email gửi bài: vanvn2021@gmail.com. Liên hệ quảng cáo: Giang Thanh Bình (0348.999.468)
Việc làm trên của Trường Tiểu học Nguyễn Đình Chiểu không có gì là lạ, vì lãnh đạo trường luôn chú ý, xem đó là trách nhiệm bên cạnh công tác dạy chữ để đảm bảo sức khỏe tốt nhất cho từng HS.
Fast Money. 2. Đánh giá trường THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu có tốt không. Trường Trung học phổ thông chuyên Nguyễn Đình Chiểu được công nhận là ngôi trường đạt chuẩn Quốc gia năm 2017. Hiện nay, trường có 82 giá Domain Liên kết Bài viết liên quan Có nên cho con học trường nguyễn đình chiểu Có nên cho con học chuyên? Ông Nguyễn Văn Ngai, nguyên Phó giám đốc Sở GD-ĐT cho rằng mong muốn con học trường chuyên là nhu cầu chính đáng của phụ huynh, bởi đây là môi trường thuận lợi cho trẻ có năng lực thật sự, ý c Xem thêm Chi Tiết
Giới thiệu. Tuyển sinh. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của trường PTCS Nguyễn Đình Chiểu; Căn cứ vào hướng dẫn số 942/SGDĐT-QLT ngày 12/4/2022 của Sở Giáo dục và Đào tạo về việc hướng dẫn tuyển sinh v Domain Liên kết Bài viết liên quan Có nên cho con học trường nguyễn đình chiểu Có nên cho con học chuyên? Ông Nguyễn Văn Ngai, nguyên Phó giám đốc Sở GD-ĐT cho rằng mong muốn con học trường chuyên là nhu cầu chính đáng của phụ huynh, bởi đây là môi trường thuận lợi cho trẻ có năng lực thật sự, ý c Xem thêm Chi Tiết
Học mấy trường như Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Siêu hay Marie Curie thì nghe bảo tốt, cơ mà cũng đắt, không phải nhà nào cũng thảnh thơi có điều kiện cho con học mấy trường này mà không phải nghĩ tới gánh n Domain Liên kết Bài viết liên quan Có nên cho con học trường nguyễn đình chiểu Có nên cho con học chuyên? Ông Nguyễn Văn Ngai, nguyên Phó giám đốc Sở GD-ĐT cho rằng mong muốn con học trường chuyên là nhu cầu chính đáng của phụ huynh, bởi đây là môi trường thuận lợi cho trẻ có năng lực thật sự, ý c Xem thêm Chi Tiết
Việc chọn trường cho con luôn là nỗi lo lắng của nhiều bậc phụ huynh, vậy nên bài viết Đánh Giá Trường THPT chuyên Nguyễn Đình Chiểu có tốt không sẽ phần nào giải quyết lo lắng của các bậc phụ huynh trong việc lựa chọn trường tốt cho con em mình. THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu là một ngôi trường khá lâu đời tại tỉnh An Giang, là ngôi trường mơ ước của nhiều em học sinh và là nơi được các phụ huynh tin tưởng khi lựa chọn gửi gắm con em mình. Dưới đây là bài đánh giá trường THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu có tốt không để các em học sinh có thêm nhiều góc nhìn về ngôi trường này nhé. Bạn đang xem Đánh Giá Trường THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu Bài viết đánh giá trường THPT chuyên Nguyễn Đình Chiểu có tốt không này sẽ mang đến cho các em học sinh các thông tin hữu ích về ngôi trường này. Lịch sử hình thành Là ngôi trường chuyên đầu tiên của tỉnh Đồng Tháp, THPT chuyên Nguyễn Đình Chiểu có địa chỉ tại thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp, Việt Nam, trường thuộc hệ thống các trường trung học phổ thông chuyên dưới sự quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đồng Tháp. Trường được thành lập vào ngày 04 tháng 8 năm 2008 theo quyết định số 114/QĐ-UBND-TL của Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Tháp và là trường chuyên đầu tiên của tỉnh Đồng Tháp. Tiền thân của trường THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu là trường THPT dân lập Đồ Chiểu được thành lập vào năm 1991 dựa trên nhu cầu xã hội hóa giáo dục. Ban đầu cơ sở vật chất của trường này là 3 phòng của Sở GD-ĐT Đồng Tháp khuôn viên trường Nam Tiểu học Đến năm học 1991-1992, trường chuyển về sử dụng cơ sở vật chất của Trường Bồ Đề cũ với tên gọi là THPT bán công Đồ Chiểu. Sau 2 năm học, trường chuyển về cơ sở vật chất sau Trường Tiểu học Kim Đồng. Năm 2006-2007, theo Luật giáo dục, không còn hệ bán công mà phải chuyển sang loại hình trường tư thục nên ban giám hiệu nhà trường làm thủ tục thay đổi thành Trường THPT tư thục Đồ Chiểu. Năm 2008-2009, cấp học THPT có nhiều thay đổi. Trường THPT tư thục Đồ Chiểu giải thể. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Tháp thành lập Trường THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu và tiếp nhận cơ sở vật chất của Trường THPT tư thục Đồ Chiểu. Đến tháng tháng 3/2011, Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Tháp phê duyệt đề án xây dựng và phát triển Trường THPT chuyên Nguyễn Đình Chiểu. Trường THPT chuyên Nguyễn Đình Chiểu Cơ sở vật chất Là trường chuyên trọng điểm của tỉnh Đồng Tháp, trường THPT chuyên Nguyễn Đình Chiểu được Sở GD&ĐT tỉnh Đồng Tháp ưu ái và có nhiều sự đầu tư về cơ sở vật chất. Trường có hệ thống 35 phòng học đạt chuẩn Quốc gia, các phòng đều được trang bị màn chiếu thông minh phục vụ cho công tác giảng dạy tại trường. Các khối phòng bộ môn; khối hành chính, thư viện; ký túc xá cùng các công trình thể dục, thể thao, các công trình phụ trợ và tiện ích như thư viện trên 50 chỗ ngồi, hội trường đều được xây dựng mới, hiện đại. Ký túc xá gọn gàng ngăn nắp. Khuôn viên của trường có diện tích lên tới sức chứa rộng lớn đủ không gian cho các em học sinh vui chơi. Khu vực khuôn viên trường Điểm tuyển sinh của trường THPT chuyên Nguyễn Đình Chiểu Kỳ thi tuyển sinh của trường được thực hiện theo đề án tuyển sinh chung của tỉnh Đồng Tháp, mỗi học sinh phải tham gia kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 với ba môn bắt buộc toán, văn, anh và một môn chuyên theo quy định của trường. Các môn chuyên của trường có điểm đầu vào như sau Chuyên Vật lí 35,250 điểm Chuyên Hóa học 39,250 điểm Chuyên Sinh học 33,500 điểm Chuyên Ngữ văn 36,250 điểm Chuyên Tiếng Anh 37,600 điểm Chuyên Tin học 25,000 điểm Chuyên Tin học – Toán 31,000 điểm 2. Đánh giá trường THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu có tốt không Trường Trung học phổ thông chuyên Nguyễn Đình Chiểu được công nhận là ngôi trường đạt chuẩn Quốc gia năm 2017. Hiện nay, trường có 82 giáo viên, cán bộ quản lý và nhân viên. 100% giáo viên có trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn. Trong cùng năm 2017, trường cũng vinh dự nhận được bằng khen của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua “Đổi mới, sáng tạo trong dạy và học” và danh hiệu “Tập thể lao động xuất sắc” năm học 2017-2018. Nhờ có đội ngũ giáo viên giàu kinh nghiệm, trình độ chuyên môn cao nên các thế hệ học sinh của trường đều đạt được nhiều thành tích xuất sắc trong học tập, đến nay số lượng học sinh của trường đều trúng tuyển vào các trường đại học chất lượng, danh tiếng rất cao. Ngoài ra, các thế hệ học sinh đều gặt hái được nhiều giải thưởng lớn như hơn 60 giải thưởng cấp Quốc gia, hơn 800 học sinh đạt giải cấp tỉnh với các cuộc thi bổ ích như Kỳ thi học sinh giỏi; Cuộc thi khoa học kỹ thuật INTEL ISEF; Cuộc thi sáng tạo thanh thiếu niên nhi đồng; Hội khỏe Phù Đổng cấp thành phố Sa Đéc, cấp tỉnh; Các hội thi văn hóa, văn nghệ học đường; Ngoài ra đạt hơn 200 huy chương Olympic 30/44. bên cạnh đó, trường cũng rất chú trọng toàn diện cho học sinh về giáo dục thể chất, rèn luyện kỹ năng mềm với mong muốn các học sinh đều được trang bị đầy đủ tư trang trên con đường tương lai sau này. Hoạt động ngoại khóa tại trường 3. Học phí trường THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu Học phí của trường luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của các bậc phụ huynh khi đăng ký chọn trường cho con em mình. Trường THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu có mức thu học phí theo quy định của Sở Giáo Dục và Đào Tạo tỉnh Đồng Tháp về hệ thống trường chuyên, trường công lập trong địa bàn tỉnh. Hy vọng bài viết đánh giá trường THPT chuyên Nguyễn Đình Chiểu có tốt không đã phần nào trả lời thắc mắc của các em học sinh về ngôi trường danh giá này. Đăng bởi Chuyên mục Tổng hợp
Nguyễn Đình Chiểu chữ Hán 阮廷炤; 1822 - 1888, tục gọi là Đồ Chiểu khi dạy học, tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai sau khi bị mù, là một nhà thơ lớn của Nam Kỳ trong nửa cuối thế kỷ 19. Năm 2021, ông được UNESCO cùng Việt Nam tôn vinh và kỷ niệm năm sinh/ năm mất.[2]Nguyễn Đình ChiểuChân dung Nguyễn Đình Chiểu trong đền thờ ông ở Ba Tri Bến TreSinh1 tháng 7, 1822Làng Tân Thới, Gia Định Thành, Việt Nam[1]Mất3 tháng 7, 1888 66 tuổiBa Tri, Bến Tre, Nam Kỳ, Liên bang Đông DươngNghề nghiệpNhà thơ, nhà văn hóaThể loạiThơ, văn tếChủ đềYêu nướcTác phẩm nổi bậtLục Vân TiênDương Từ-Hà MậuVăn tế nghĩa sĩ Cần GiuộcNgư tiều y thuật vấn đápPhối ngẫuLê Thị Điền 1835-1886Con cái6 3 trai 3 gái- Sương Nguyệt Anh gái, thứ 4- Nguyễn Đình Chiêm trai, thứ 5Thân nhânNguyễn Đình Huy chaTrương Thị Thiệt mẹ, mất 1848Thân thế và sự nghiệpNguyễn Đình Chiểu sinh ngày 13 tháng 5 năm Nhâm Ngọ 1 tháng 7 năm 1822 tại quê mẹ là làng Tân Thới,[3] phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định nay thuộc phường Cầu Kho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông xuất thân trong gia đình nhà nho. Cha ông là Nguyễn Đình Huy, người làng Bồ Điền, xã Phong An,[4] huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên; nay là tỉnh Thừa Thiên Huế. Lớn lên, ông Huy cưới vợ ở đây và đã có 2 con 1 trai và 1 gái. Mùa hạ tháng 5 năm Canh Thìn 1820 Tả quân Lê Văn Duyệt được triều đình Huế phái vào làm Tổng trấn Gia Định Thành. Đến đầu mùa thu, Nguyễn Đình Huy đi theo Tả quân để tiếp tục làm thư lại ở Văn hàn ty thuộc dinh Tổng trấn. Ở Gia Định, ông Huy có thêm người vợ thứ là bà Trương Thị Thiệt[5]người làng Tân Thới, sinh ra 7 con 4 trai, 3 gái và Nguyễn Đình Chiểu chính là con đầu sửThuở bé, Nguyễn Đình Chiểu được mẹ nuôi dạy. Năm lên 6, 7 tuổi, ông theo học với một ông thầy đồ ở 1832, Tả quân Lê Văn Duyệt mất. Năm sau 1833, con nuôi Tả quân là Lê Văn Khôi, vì bất mãn đã làm cuộc nổi dậy chiếm thành Phiên An ở Gia Định, rồi chiếm cả Nam Kỳ. Trong cơn binh biến, cha của Nguyễn Đình Chiểu bỏ trốn ra Huế nên bị cách hết chức tước. Song vì thương con, cha ông lén trở vào Nam, đem con ra gửi cho một người bạn đang làm Thái phó ở Huế để tiếp tục việc học. Nguyễn Đình Chiểu sống ở Huế từ 11 tuổi 1833 đến 18 tuổi 1840 thì trở về Gia Quý Mão 1843, ông đỗ Tú tài ở trường thi Gia Định lúc 21 tuổi. Khi ấy có một nhà họ Võ hứa gả con gái cho ông.[6]Năm 1847, ông ra Huế học để chờ khoa thi năm Kỷ Dậu 1849.[6] Lần này ông cùng đi với em trai là Nguyễn Đình Tựu 10 tuổi.Mẹ mất, bị mù lòaNgày rằm tháng 11 năm Mậu Thân 31 tháng 12 năm 1848, mẹ Nguyễn Đình Chiểu mất ở Gia Định. Được tin, ông bỏ thi, dẫn em theo đường bộ trở về Nam chịu tang đường trở về, vì quá thương khóc mẹ, vì vất vả và thời tiết thất thường nên đến Quảng Nam thì Nguyễn Đình Chiểu bị ốm nặng. Trong thời gian nghỉ chữa bệnh ở nhà một thầy thuốc vốn dòng dõi Ngự y, tuy bệnh không hết nhưng ông cũng đã học được nghề thuốc. Lâm cảnh mù mắt, hôn thê bội ước, cửa nhà sa sút... Nguyễn Đình Chiểu đóng cửa chịu tang mẹ cho đến năm 1851 thì mở trường dạy học và làm thuốc ở Bình Vi Gia Định. Truyện thơ Lục Vân Tiên của ông có lẽ được bắt đầu sáng tác vào thời gian này.[7]Năm 1854, Nguyễn Đình Chiểu cưới Lê Thị Điền 1835-1886, người làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc; trước thuộc Gia Định, nay thuộc tỉnh Long An làm vợ. Bà Điền là em gái thứ năm của Lê Tăng Quýnh, học trò ông, vì cảm phục và mến thương thầy đã xin gia đình tác hợp. Truyện thơ Dương Từ-Hà Mậu của ông có lẽ được bắt đầu sáng tác vào thời gian này.[7]Dạy học, làm thuốc và sáng tác thơ vănNăm 1858, quân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng. Vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân và dân Việt, quân Pháp vào Nam đánh phá thành Gia Định vào đầu năm 1859. Sau khi tòa thành này thất thủ 17 tháng 2 năm 1859, Nguyễn Đình Chiểu đưa gia đình về sống ở Thanh Ba Cần Giuộc, tức quê vợ ông. Vô cùng đau đớn trước thảm cảnh mà quân Pháp đã gây nên cho đồng bào, và rất thất vọng về sự hèn yếu, bất lực của triều đình, ông làm bài thơ "Chạy giặc".[8]Đêm rằm tháng 11 năm Tân Dậu 16 tháng 12 năm 1861,[9] những nghĩa sĩ mà trước đây vốn là nông dân, vì quá căm phẫn kẻ ngoại xâm, đã quả cảm tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc, tiêu diệt được một số quân của đối phương và viên tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho Pháp. Khoảng 15 nghĩa sĩ bỏ mình.[10] Những tấm gương đó đã gây nên niềm xúc động lớn trong nhân dân. Theo yêu cầu của Tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu làm bài "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc", để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận đánh Hòa ước Nhâm Tuất 1862, 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ mất về tay Pháp, theo phong trào "tỵ địa",[11] Nguyễn Đình Chiểu cùng gia đình rời Thanh Ba Cần Giuộc về Ba Tri Bến Tre vì không thể sống chung với họ. Chia tay với bạn bè thân quen, ông làm bài thơ "Từ biệt cố nhân".Về Ba Tri, ông tiếp tục dạy học, làm thuốc và đem ngòi bút yêu nước của mình ra phục vụ cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào Nam Kỳ suốt trong hơn 20 năm, dù đã mù lòa.[12]Năm 1863, em trai út ông là Nguyễn Đình Huân theo Đốc binh chống Pháp, hy sinh ở Cần 8 năm 1864, thủ lĩnh cuộc kháng chiến chống Pháp ở Gò Công là Trương Định bị thương rồi tuẫn tiết ở Ao Dinh; xúc động, Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế và 12 bài thơ liên hoàn để 1867, Kinh lược sứ Phan Thanh Giản và Đốc học Vĩnh Long Nguyễn Thông tổ chức đưa di hài nhà giáo Võ Trường Toản từ làng Hòa Hưng Gia Định về táng ở Bảo Thạnh Ba Tri, Nguyễn Đình Chiểu có đến dự lễ 4 tháng 8 năm đó 1867, Phan Thanh Giản tuẫn tiết vì không giữ được thành Vĩnh Long, Nguyễn Đình Chiểu có làm 2 bài thơ điếu. Có thể ông bắt đầu soạn quyển thơ Ngư tiều vấn đáp nho y diễn ca trong năm 1868, thủ lĩnh kháng Pháp ở Ba Tri là Phan Tòng còn có tên là Phan Ngọc Tòng hy sinh, ông làm 10 bài thơ 1877, Nguyễn Đình Chiểu dời đến ở làng An Bình Đông sau đổi là An Đức cách chợ Ba Tri khoảng 2 cây số.[13]Năm 1883, Tỉnh trưởng Bến Tre là Michel Ponchon đã đến nhà để yêu cầu ông nhuận chính quyển thơ Lục Vân Tiên, đồng thời ngỏ ý trao trả lại ruộng vườn của ông mà họ đã chiếm đoạt.[14] Ông khẳng khái nói "Đất vua không ai trả thì đất riêng của tôi có sá gì", rồi khước từ mọi hứa hẹn giúp đỡ của chính quyền thực dân. Lại hỏi ý muốn riêng của ông, ông đáp "muốn tế vong hồn nghĩa sĩ Lục tỉnh", và được viên Tỉnh trưởng chấp thuận. Sau đó, ông tổ chức lễ tế tại chợ Ba Tri, và đọc bài "Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh".[15]Qua đờiNăm 1886, vợ ông là bà Lê Thị Điền mất lúc 51 tuổi. Buồn rầu vì vợ mất, vì cảnh nước mất nhà tan đã bấy lâu, vì bệnh tật ngày càng trầm trọng,[16] 2 năm sau, ngày 24 tháng 5 năm Mậu Tý 3 tháng 7 năm 1888, Nguyễn Đình Chiểu cũng qua đời tại Ba Tri, thọ 66 tuổi. Ngày đưa tiễn nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu về cõi vĩnh hằng, cánh đồng An Đức rợp trắng khăn tang của những người mến mộ ông.[17]Ông được an táng cạnh mộ vợ, nay thuộc ấp 3, An Đức, Ba Tri, Bến Tre.[18]Tác phẩm chínhLục Vân Tiên truyện thơ Nôm, bắt đầu soạn khoảng 1851, gồm câu thơ lục bát. Đây là một "bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý đáng trọng ở đời" đã làm nên tên tuổi Nguyễn Đình Chiểu,[19] và là một tác phẩm lớn của văn học Việt Nam, được nhân dân, đặc biệt là nhân dân Nam Bộ yêu chuộng.[17]. Sau thời gian phổ biến theo lối truyền miệng, truyện Lục Vân Tiên đã được Duy Minh Thị tên thật là Trần Quang Quang ở Chợ Lớn khắc in lần đầu ở Trung Quốc trước năm 1864, và đã được các nhà văn như Aubaret, Abel de Michels, Bajot... dịch ra tiếng nước ngoài.[20]Dương Từ – Hà Mậu truyện thơ Nôm, bắt đầu soạn khoảng 1854. Căn cứ bản Tân Việt Sài Gòn, 1964 do Phan Văn Hùm sao lục và hiệu đính, thì tập thơ gồm câu, trong đó phần lớn là thơ lục bát, có xen thơ luật Đường 33 bài và các thể khác...[21] Tác giả mượn câu chuyện này để nói lên thái độ của ông đối với đạo Phật và Công giáo Rôma mà ông không tán thành.[22]Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca Ngư tiều y thuật vấn đáp, 1867?, gồm câu, trong đó phần lớn là thơ lục bát, có xen 21 bài thơ và một số bài thơ ca, phú… trích từ các sách thuốc Trung Quốc.[23] Đây là một quyển sách dạy nghề làm thuốc chữa bệnh, viết dưới hình thức truyện thơ Nôm. Song giá trị chủ yếu ở việc tác giả đã lồng tư tưởng yêu nước vào nội dung y thuật.[24]Ngoài ra, ông còn để lại khoảng 37 bài thơ và văn tế, trong số đó có nhiều bài nổi tiếng như Chạy giặc 1859Từ biệt cố nhân 1859Tế Cần Giuộc sĩ dân trận vong văn tức Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, 1861Mười hai bài thơ và bài văn tế Tướng quân Trương Định 1864Thơ điếu Đông các Đại học sĩ Phan Thanh Giản 2 bài, 1867Mười bài thơ điếu Ba Tri Đốc binh Phan Tòng 1868Lục tỉnh sĩ dân trận vong văn Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh, chưa biết đích xác thời điểm sáng tác.[25]Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây chưa xác định thời điểm sáng tácThảo thử hịch Hịch đánh chuột, chưa xác định thời điểm sáng tácNgóng gió đông chưa xác định thời điểm sáng tácThà đui chưa xác định thời điểm sáng tác, nghiệp văn chươngNguyễn Đình Chiểu là một nhà nho tiết tháo, sống theo đạo nghĩa, tuy mang khiếm khuyết về cơ thể mù lòa và gặp lúc biến loạn nhưng vẫn giữ được phẩm cách thanh cao. Ông không chỉ là người con có hiếu, người thầy thuốc mẫu mực mà còn là một nhà thơ yêu nước, đã để lại nhiều tác phẩm có giá là nhà thơ có quan niệm văn chương nhất quán. Ông chủ trương dùng văn chương biểu hiện đạo lý và chiến đấu cho sự nghiệp chính nghĩa. Nói khác hơn, ông làm thơ là để "chở đạo, sửa đời và dạy người".[16] Vì vậy, mỗi vần thơ của ông đều ngụ ý khen chê công bằng, rạch ròi, và đều bộc lộ một tấm lòng thương dân yêu nước của nghiệp văn chương của ông, có thể chia thành hai thời kỳ sáng tác- Giai đoạn đầu những năm 50 của thế kỷ 19 Trong giai đoạn này, ông viết "Lục Vân Tiên" và "Dương Từ-Hà Mậu". Có thể xem đây là thời kỳ khẳng định tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng yêu nước yêu dân của Giai đoạn sau bắt đầu từ ngày quân Pháp đến chiếm lấy Gia Định 1859 cho đến khi ông qua đời 1888 ngòi bút của ông ở giai đoạn này gắn bó mật thiết với cuộc sống của người dân mất nước. Trong nhiều tác phẩm như "Chạy giặc", "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc", "Lục tỉnh sĩ dân trận vong"... ông đã lên án mạnh mẽ quân Pháp xâm lược, phê phán triều đình nhu nhược, đồng thời ca ngợi tinh thần nghĩa khí và những tấm gương chiến đấu anh dũng của nhân dân. Đây là giai đoạn phát triển cao và rực rỡ của sự nghiệp văn chương Nguyễn Đình Chiểu.[26]Dù ở giai đoạn nào, trong các tác phẩm của ông nổi bật lên ba đặc điểm về nội dung và hình thức, đó là- Ông thường dùng chữ Nôm, và bằng ngôn ngữ nghệ thuật bình dị, giàu sức gợi cảm khiến cho tác phẩm của ông có sức thu hút mạnh mẽ người đọc, nhất là đối với nhân dân miền Ông là nhà thơ đầu tiên xây dựng thành công hình ảnh những người nông dân trong văn học Việt, đắp tô tượng đài vĩnh cửu về người anh hùng Nam Bộ tiên phong trong công cuộc chống thực dân Pháp xâm Ông đề cao tư tưởng Nho gia, xem ra có vẻ bảo thủ. Song điều đáng chú ý là các tư tưởng ấy mang nội dung đạo nghĩa nhân dân, gắn chặt với ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh của đất nước, do đó có một ý nghĩa xã hội to lớn, khởi đầu cho một thời đại văn chương sử thi mới sau này.[27]So với các trước tác của các nhà văn cùng thời, Nguyễn Đình Chiểu đã có một thái độ tích cực hơn, vì dân vì nước hơn. Tuy không đứng vào hàng ngũ cầm khí giới, nhưng ông rất có cảm tình với họ, chia sẻ với họ cái hờn mất nước, lòng căm ghét quân địch và bọn hợp tác...[28] Giai thoại Mộ Nguyễn Đình Chiểu trái, mộ vợ ông phải, phía xa là mộ Sương Nguyệt Anh và đền thờ của ôngThực dân Pháp cho Tôn Thọ Tường là bạn của Đồ Chiểu đến dụ dỗ ông. Đến mấy lần, nhưng lần nào đều bị Đồ Chiểu tìm cớ lánh mặt, sau Tường gửi tặng hủ mắm cá lóc, mà Tường nói rõ trong thư là chính tay của vợ mình làm, để biếu bạn xưa. Sau khi ăn gần hết, Đồ Chiểu mới phát hiện ở dưới đáy hũ có mấy nén vàng, ông vô cùng tức giận, viết thư trách Tôn Thọ Tường và sai người trả lại Ponchon, tỉnh trưởng tỉnh Bến Tre cũng đã mấy lần thân hành đến nhà Đồ Chiểu. Có lần lấy cớ nhờ nhuận sắc bản Lục Vân Tiên, nhưng ông giả vờ điếc đặc. Có lần viên quan này thông báo việc trả lại ruộng đất ở Tân Thới Gia Định cho Đồ Chiểu nhưng nhận được câu trả lời "Đất vua còn phải bỏ, thì đất tôi sá gì!" Lần khác, M. Ponchon đặt ra vấn đề cấp dưỡng, Đồ Chiểu nói "Tôi đây đang sống đầy đủ trong sự tôn kính của các môn đệ và sự quý mến của đồng bào. Điều đó đã làm tôi thỏa mãn lắm rồi"... Duy nhất có một lần, M. Ponchon hỏi Đồ Chiểu về một ước nguyện. Đồ Chiểu nói chỉ mong ước chính phủ Pháp cho ông tổ chức một buổi lễ tế vong hồn những người dân đã chết trận, và đã được viên quan này đồng ý. Hôm đó, tại chợ Đập nay là chợ Ba Tri, nghe Đồ Chiểu đọc bài văn tế thảm thiết, đông đảo mọi người đến dự đều không cầm được nước mắt...[29]Thông tin liên quanNguyễn Đình Chiểu có tất cả là ba người con trai và ba người con gái. Trong số đó có nữ sĩ Sương Nguyệt Anh con gái, thứ tư[30] và Nguyễn Đình Chiêm con trai, thứ năm đều là người có tiếng trong giới văn thể khu đền thờ và mộ Nguyễn Đình Chiểu tại huyện Ba Tri Bến Tre đã được Bộ Văn hóa-Thông tin công nhận là di tích quốc gia đặc biệt vào ngày 22 tháng 12 năm 2016.[31]Vinh danhTrong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, vào năm 1965 Hội Văn nghệ Giải phóng Miền Nam đã lập ra Giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu dành tặng cho các tác giả, tác phẩm nổi bật trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật ở miền công trình gắn liền với tên tuổi Nguyễn Đình ChiểuCuối năm 1945, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Mặt trận Việt Minh đã cho đổi tên đường mang tên người Pháp trước đây thành đường phố mang tên danh nhân người Việt Nam, trong đó có phố Nguyễn Đình Chiểu ở thành phố Hà Nội nay là phố Phủ Doãn và ở thành phố Hải Phòng nay là phố Tôn Thất Thuyết. Tuy nhiên, sau khi thực dân Pháp chiếm lại được các thành phố này vào cuối năm 1946 thì tên phố Nguyễn Đình Chiểu cũng bị mất đi và trở lại bằng các tên đường mang tên người Pháp như đó, chính quyền Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại đứng đầu vốn trực thuộc khối Liên hiệp Pháp cũng cho đặt tên đường phố mang tên Nguyễn Đình Chiểu tại các thành phố này trên cơ sở một lần nữa xóa bỏ tên đường mang tên người Pháp cũ. Cụ thể, từ đầu năm 1951 tại thành phố Hà Nội lại có phố Nguyễn Đình Chiểu tại khu vực làng Ngũ Xã cũ nằm ven bờ hồ Trúc Bạch; đến năm 1954 tới lượt thành phố Hải Phòng cũng cho đổi tên ngõ Đồng Lùn cũ thành ngõ Nguyễn Đình Chiểu. Tuy nhiên, sau đó ở Hải Phòng ngõ này đã đổi lại tên cũ thành ngõ Đồng Lùn cho đến nay; và tại Hà Nội đến năm 1964 trên cơ sở cho rằng con phố Nguyễn Đình Chiểu ngắn và nhỏ như vậy hoàn toàn không phù hợp với công lao to lớn của ông đối với đất nước, chính quyền Hà Nội lại cho đổi tên phố Nguyễn Đình Chiểu cũ thành phố Nam Tràng và giữ nguyên cho đến ngày nay; còn phố số 296 vốn chưa có tên nằm ven hồ Bảy Mẫu thì cho đặt tên là phố Nguyễn Đình năm 1950, tại vùng Hòa Hưng, Sài Gòn đã có một con đường nhỏ mang tên đường Nguyễn Đình Chiểu. Đến năm 1955, chính quyền Sài Gòn đổi tên thành đường Hòa Hưng cho đến ngày Thành phố Hồ Chí Minh trước năm 1975 lúc đó bao gồm Đô thành Sài Gòn và tỉnh Gia Định có tới hai con đường mang tên Nguyễn Đình Chiểu Tại Đô thành Sài Gòn cũ, từ ngày 22 tháng 3 năm 1955 Nguyễn Đình Chiểu được đặt tên cho một con đường khá nhỏ ở vùng Tân Định, đi ngang qua Viện Pasteur, nối từ đường Hai Bà Trưng đến đường Trương Minh Giảng nay là đường Trần Quốc Thảo. Ngày 14 tháng 8 năm 1975, đường Nguyễn Đình Chiểu cũ bị thay đổi tên thành đường Trần Quốc Toản, còn đường Phan Đình Phùng cũ thì đổi tên thành đường Nguyễn Đình Chiểu theo Quyết định của Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn - Gia xã Phú Nhuận thuộc quận Tân Bình, tỉnh Gia Định cũ, từ sau năm 1955 cũng có một con đường ngắn và nhỏ mang tên là đường Nguyễn Đình Chiểu, giữ nguyên tên cho đến ngày nay, nhiều tên đường tại các thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt... và tên trường học nhất là các trường dành cho trẻ em khuyết tật ở Việt Nam được mang tên nhân văn hoá thế giớiNgày 23/11/2021 tại Paris/Pháp, Đại hội đồng UNESCO lần thứ 41 đã thông qua trong danh sách “Danh nhân văn hóa và sự kiện lịch sử niên khóa 2022 – 2023” để UNESCO cùng các nước vinh danh và tham gia kỷ niệm năm sinh/năm mất của các nhân vật lịch sử được công nhận. Hồ sơ kỷ niệm 200 năm ngày sinh của danh nhân Nguyễn Đình Chiểu và kỷ niệm 250 năm ngày sinh, 200 năm ngày mất của nữ sĩ Hồ Xuân Hương được thông qua cùng với 58 hồ sơ khác của các nước ngày 30/6/2022, tại khu di tích Quốc gia đặc biệt mộ và đền thờ cụ Nguyễn Đình Chiểu, Tỉnh Bến Tre và tổ chức UNESCO đã trọng thể tổ chức Lễ kỷ niệm 200 năm ngày sinh Danh nhân Nguyễn Đình Chiểu 1822 - 2022. Chủ tịch Nước Nguyễn Xuân Phúc dự và phát biểu chỉ đạo. Ngoài ra, tại buổi lễ còn có chương trình nghệ thuật "Đạo sáng mãi giữa đời" đã tôn vinh danh nhân Nguyễn Đình Chiểu là Danh nhân Văn hóa Thế giới đầu tiên của Nam Bộ. Cổng vào khu di tích đền thờ và mộ Nguyễn Đình Chiểu tại xã An Đức, Ba Tri, Bến Tre. Đền thờ Nguyễn Đình Chiểu trong khu đền mộ. Tượng Nguyễn Đình Chiểu trong Văn miếu Trấn Biên, Biên Hòa, Đồng Nai. Chân dung Nguyễn Đình thích^ Ông sinh vào năm Minh Mệnh thứ 02, thời gian này quốc hiệu nhà Nguyễn là Việt Nam 1804-1839.^ Theo Văn học thế kỷ XIX, tr. 405.^ Theo Nguyễn chí thế phả do Đồ Chiểu biên soạn, và cha ông là Nguyễn Đình Huy hiệu chính. Trương Vĩnh Ký trong truyện Lục Vân Tiên Sài Gòn, 1889 chép là làng Tân Khánh. Rất có thể Tân Thới về sau được đổi thành Tân Khánh, hoặc là cả hai nơi này về sau nhập làm một. Làng Tân Thới ở đâu, hiện nay chưa xác định được, chỉ biết ở tại Tân Triêm, thuộc vùng Cầu Kho xưa có phần mộ của bà Trương Thị Thiệt mẹ Đồ Chiểu. Vậy rất có thể làng Tân Thới ở vùng Cầu Kho, thuộc quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập 1, tr. 21.^ Có người cho rằng Đồ Chiểu thuộc dòng họ Nguyễn Đình ở Phước Yên, thuộc huyện Phong Điền Thừa Thiên Huế. Vì vậy, nhóm biên soạn Nguyễn Đình Chiểu toàn tập đã đi đến đó. Sau khi xem xét gia phả dòng họ vừa kể, nhóm biên soạn đã kết luận rằng "quê quán Đồ Chiểu đúng là ở xã Bồ Điền, vì gia phả dòng họ Nguyễn Đình không có chép Đồ Chiểu cùng các cụ tổ khác của ông" Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập 1, tr. 23.^ Bà Trương Thị Thiệt sinh ngày 15/10/1800 tại Làng Tân Thới, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình. Bà kết duyên với ông Nguyễn Đình Huy người Phủ Thừa Thiên sinh được 7 người con. Bà mất vào ngày 10/12/1848 ngày tháng được ghi theo bia mộ được bà con, thân tộc an táng tại quê nhà Làng Tân Thới, nay thuộc phường Cầu Kho, Quận 1, không biết rõ thời gian và ai là người đã cải táng phần mộ bà từ Cầu Kho về xã Mỹ Hoà, huyện Ba Tri từ khi nào, nhưng đến năm 2008 ngày 06/04 tức ngày mùng 01/03 năm Mậu Tý cháu sơ của cụ Nguyễn Đình Chiểu là Nguyễn Đình Phước, Nguyễn Thị Nữ cùng con cháu họ tộc cụ Đồ Chiểu đã cải táng mộ phần bà Trương Thị Thiệt cùng Nguyễn Thị Thành em gái cụ Đồ, Nguyễn Thị Ngọc Hương con gái và Nguyễn Đình Ngưỡng con trai út cụ Đồ nằm trên phần đất nhà ông Năm Niếu, xã Mỹ Hoà về ấp Hữu Nhơn, xã Hữu Định, huyện Châu Thành cho đến nay.^ a b Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập 1, tr. 26.^ a b Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập 2, tr. 439.^ Theo Văn học lớp 11 nâng cao, tập 1, tr. 23.^ Ghi theo Văn học lớp 11 nâng cao, tập 1, tr. 31 và Nguyễn Đình Chiểu toàn tập tập 2, tr. 439. Văn học thế kỷ XIX do PGS. Hoàng Hữu Yên làm Chủ biên, NXb Khoa học xã hội, 2004, tr. 407 ghi là "ngày 14 tháng 12 năm 1861".^ Ghi theo Từ điển Văn học bộ mới, Nhà xuất bản Thế giới, 2004, tr. 1971. Văn học lớp 11 nâng cao ghi khoảng 20 người Nhà xuất bản Giáo dục, 20037, tr 30. Theo công văn của Tuần phủ Gia Định Đỗ Quang là 27 người, theo Huỳnh Tịnh Của là 15 người dẫn lại theo Văn học thế kỷ XIX, tr. 407. Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập tập 2, tr. 441, thì người chỉ huy cuộc tập kích là Đỗ Trình Thoại.^ Tỵ địa khi quân Pháp chiếm dần Nam Kỳ, người dân ở vùng tạm chiếm chạy sang vùng tự do để lánh quân xâm lược. Vùng đất người dân chạy đến gọi là "tỵ địa" giải thích theo Ngữ văn 11 nâng cao, tập 1, tr. 36.^ Ghi theo Văn học thế kỷ XIX tr. 405. Văn học lớp 11 nâng cao, tập 1, tr. 36 viết "khi về Ba Tri, Nguyễn Đình Chiểu tham gia kháng chiến dưới cờ của Trương Định và Đốc binh Là". Tuy nhiên, theo GS. Dương Quảng Hàm, thì "Trương Định có mời ông ra làm quân sư cho mạnh thanh thế, nhưng ông từ chối" Văn học Việt Nam, Trung tâm học liệu Sài Gòn xuất bản, 1968, tr. 144.^ Khi về Ba Tri, Nguyễn Đình Chiểu làm nhà ở đâu chưa tra được. Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập tập 2, tr. 447 thì đến năm 1877 ông mới đến ở làng An Bình Đông, và rồi mất ở đây.^ Ghi theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập tập 1, tr. 33. Văn học lớp 11 nâng cao, tập 1, tr. 36 ghi là "Ponchon tìm cách mua chuộc ông, cấp đất cho, nhưng ông từ chối".^ Lược kể theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập tập 1, tr. 33.^ a b Theo Lê Chí Dũng, Từ điển văn học bộ mới, tr. 1129.^ a b Theo Văn học lớp 11 nâng cao, tập 1, tr. 36.^ Năm 1959, di cốt của con gái Nguyễn Đình Chiểu là nữ sĩ Sương Nguyệt Anh cũng đã được cải táng bên cạnh mộ vợ chồng ông.^ Câu trong ngoặc kép là của Phạm Văn Đồng dẫn lại theo Từ điển văn học bộ mới, tr. 886.^ Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập tập 1, tr. 67.^ Ở các bản khác, số câu có khác hơn.^ Theo Văn học thế kỷ XIX, tr. 421.^ Căn cứ bản in trong Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập 2.^ Theo Văn học thế kỷ XIX, tr. 423.^ Theo Lê Chí Dũng Từ điển văn học, bộ mới, tr. 1129, Đồ Chiểu viết bài "Lục tỉnh sĩ dân trận vong văn" năm 1874. Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập tập 2, tr. 448, bài này được làm năm 1884 để đọc trong buổi lễ tế nghĩa sĩ Lục tỉnh tại chợ Ba Tri, sau khi được chủ tỉnh Bến Tre chấp thuận.^ Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập^ Lược theo Văn học lớp 11 nâng cao, tập 1, tr. 37 và 41.^ Nhận xét của GS. Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên tập 3, Quốc học tùng thư, Sài Gòn, 1965, tr. 29.^ Lược kể theo Huỳnh Ngọc Trảng, Ngàn năm bia miệng, Sở Văn hóa Thông tin Long An xuất bản, 1984, tr. 101-102.^ Theo tục lệ ở Nam Bộ, con đầu lòng kể thứ hai, nên mặc dù Sương Nguyệt Anh là con gái thứ tư trong gia đình, nhưng được gọi là Năm. Tương tự, Nguyễn Đình Chiêm cũng vậy.^ “Quyết định số 2499/QĐ-TTg năm 2016 về việc xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ ban hành”. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm tham khảo chínhCa Văn Thỉnh-Nguyễn Sỹ Lâm-Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Đình Chiểu toàn tập gồm 2 quyển. Nhà xuất bản Đại học vả Trung học chuyên nghiệp, Chí Dũng, mục từ "Nguyễn Đình Chiểu" in trong Từ điển văn học bộ mới. Nhà xuất bản Thế giới, Hữu Yên Chủ biên, Văn học thế kỷ XIX. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Đình Sử Tổng Chủ biên, Ngữ văn 11 nâng cao, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục, kết ngoài
có nên cho con học trường nguyễn đình chiểu